Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

Mô hình nuôi gà ác hiệu quả cao của nông dân Hòa Lộc

        
Gà ác còn có tên là gà ngũ trảo, vì chân có 5 ngón. Thịt gà ác thơm, ngon hơn thịt gà thường và là một món thuốc bắc quý hiếm trên thị trường.
Cùng với việc nhân rộng các mô hình nuôi gà thả vườn theo hướng an toàn sinh học, nhiều hộ nông dân ở Hoà Lộc, huyện Mỏ Cày Bắc đã phát triển mô hình nuôi gà ác. Tiêu biểu là anh Trần Văn Thuận ở ấp Hoà Phước.
Anh Thuận cho biết, mỗi tháng anh xuất bán khoảng 3.000 con gà ác thịt (mỗi con có trọng lượng 200 – 300g). Giá mỗi con trung bình 12.000 đồng. Trừ mọi chi phí con giống, thức ăn, anh có lãi khoảng 6 triệu đồng.
Image
Anh Thuận giới thiệu "kho" trứng gà ác của mình. (Ảnh: T. Duyên)

Sức khoẻ yếu, không thể lao động nặng, vợ chồng anh Thuận chọn nghề nuôi gà để phát triển kinh tế. Anh chị đầu tư làm chuồng trại 50 triệu đồng.
Lúc đầu, do chưa có kinh nghiệm, anh chỉ nuôi 200-300 con thịt. Thấy có hiệu quả cao, tích luỹ được một số kinh nghiệm, anh mạnh dạn đầu tư nuôi gà thịt số lượng lên đến hàng ngàn con.
Anh Thuận cho biết, nuôi gà ác phải tuân thủ nghiêm ngặt lịch tiêm ngừa các loại bệnh, đặc biệt là cúm A/H5N1. Chuồng trại cũng phải được vệ sinh hàng ngày, nước uống được xử lý trước khi đưa đến chuồng. Gà con được úm trong lồng lưới có đèn sưởi ấp.
Gà giống được mua ở tận Tiền Giang, có qua kiểm dịch. Sau 4 - 5 tuần tuổi gà có trọng lượng khoảng 20 gram. Khi đó, gà thịt được thương lái rất ưa chuộng.
Bên cạnh việc nuôi gà thịt, anh Thuận còn thu mua gà thịt của bà con địa phương để tiêu thụ. Thị trường chủ yếu là các chợ trong huyện và cả thương lái ở tận Long An.
Anh Thuận tiếp tục đầu tư nuôi gà giống. Hiện anh đã có 500 con gà mái và 100 gà trống để nuôi làm giống. Anh Thuận chia gà thành những chuồng nhỏ với tỷ lệ 40 gà mái 6 gà trống. Khoảng ba tháng, gà đã cho trứng.
Về kỹ thuật cho gà đẻ liên tục anh Thuận cho biết anh sử dụng đèn vào buổi tối, chỉ cho gà ngủ khoảng 6 tiếng. Ban đêm anh tăng cường thức ăn, cung cấp đủ chất dinh dưỡng. Chuồng gà được thiết kế nghiêng để gà không giữ được trứng. Anh chị cho biết phải thường xuyên thăm trứng, không để cho gà giữ trứng, vì khi đó gà sẽ ngưng đẻ 5 – 6 ngày. Anh chị còn tận dụng mương dưới chuồng để nuôi cá tăng thu nhập cho gia đình.
Ngoài ra, anh Thuận còn đầu tư mua 1 máy ấp trứng với công suất 4.000 trứng/lần ấp với giá 4 triệu đồng, vừa để có gà giống nuôi, vừa cung cấp con giống cho các hộ chăn nuôi.
Mô hình nuôi gà ác thịt của anh Thuận đang mang lại hiệu quả khá cao. Việc chăm sóc gà tương đối đơn giản mà một nông dân nào cũng có thể làm được.
Nuôi gà ác là một mô hình mới. Điều kiện khí hậu của địa phương lại rất thích hợp với giống gà này. Do đó, nhân rộng mô hình và khuyến khích nông dân làm theo là điều cần thiết.
Ông Trần Văn Ngà, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hoà Lộc khẳng định: Đây là mô hình điển hình của xã và có hiệu quả hướng thị trường có tiềm năng cho nông dân sản xuất và tiêu thụ. Nông dân khuyến khích tạo điều kiện hỗ trợ cho gia đình phát triển có tính kế thừa. Mô hình này vừa nâng cao thu nhập vừa đảm bảo cuộc sống ổn định cho người nông dân chúng ta.”

Mô hình nuôi thỏ đạt hiệu quả kinh tế cao

        
        
Trước thực trạng dịch bệnh trên gia súc, gia cầm thường xuyên xảy ra, cùng với việc giá cả và đầu ra một số hàng hoá nông sản không ổn định đã tác động mạnh đến đời sống của người dân, gần đây một số nông dân tại xã Vĩnh An, huyện Ba Tri đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu vật nuôi theo nhu cầu tiêu thụ của thị trường, vừa đảm bảo đầu ra và giá cả ổn định. Thỏ đang là đối tượng được người dân nuôi rộng rãi tại đây.
Đến thăm mô hình nuôi thỏ của anh Bùi Văn Việt, ở ấp Vĩnh Đức Trung, xã Vĩnh An, huyện Ba Tri, mới tận mắt chứng kiến mô hình khá quy mô của anh.
Là nông dân cần cù chịu khó, năm 2009 anh học hỏi kinh nghiệm nuôi thỏ từ các phương tiện thông tin đại chúng và những người bạnở ngoài huyện.
Image
Thỏ là loại rất dễ nuôi, không kém chọn thức ăn.
Lúc đầu anh chỉ nuôi 2 con, thấy thỏ rất dễ nuôi, không kén thức ăn (chủ yếu là rau cỏ, lá cây), nếu nuôi càng nhiều thì hiệu quả kinh tế càng cao, nên anhđã mở rộng chuồng trại gần 100m2nhân thêm thỏ giống để nuôi.
Qua 1 năm gầy dựng mô hình, đến nay anh Việtđã nuôi gần 300 con thỏ. Nhờ nắm vững kiến thức về chăn nuôi, thực hiện nuôi thỏ theo chu trình khép kín, chủ động từ khâu con giống đến khi xuất bán, lại biết cách chủ động phòng tránh dịch bệnh, nên đàn thỏ phát triển khá nhanh.
Theo anh Việt, thỏ con nuôi từ 5-6 tháng là có thể sinh sản. Nếu thỏ đã trưởng thành thì mỗi tháng đẻ một lần. Mỗi năm một con thỏ cái đẻ trung bình 8 lứa, mỗi lứa từ 6-10 con.
Thỏ trưởng thành đạt khoảng trên 5kg. Hiện tại, giá thỏ thịt dao động từ 40 đến 42 ngàn đồng/kg. Trung bình mỗi con thỏ xuất chuồng khoảng 3 tháng tuổi, đạt trọng lượng gần 3 kg cũng có giá đến 120 ngàn đồng.
Ngoài bán thỏ con, thỏ thịt, anh Việt còn bán thỏ giống cho các địa bàn trong và ngoài tỉnh với giá mỗi con thỏ giống sắp sinh sản khoảng 350 ngàn đồng.
Tùy theo lượng thỏ bán ra, mỗi tháng sau khi trừ chi phí anh Việt còn lãi từ 3 đến 6 triệu đồng. Như vậy mỗi năm sau khi trừ chi phí anh thu lãi khoảng 50 triệu đồng.
Nói về kinh nghiệm nuôi thỏ của mình, anh Bùi Văn Việt cho biết: Thỏ là loại gặm nhắm rất dễ nuôi, chủ yếu ăn các loại rau như lá khoai lang, rau muống, cỏ, thân cây chuối.
Tuy nhiên để thỏ đủ dinh dưỡng và mau lớn, chúng ta có thể cho thỏ ăn lúa, cám trộn thức ăn công nghiệp, thỏ ít bị bệnh và rất dễ chăm sóc. Nếu giá cả thị trường tiếp tục ổn định, nuôi thỏ sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Còn đối với anh Lê Văn Đở, người cùng xã Vĩnh An, là một người có thâm niên nuôi thỏ chưa đầy 2 năm, nhưng anh đã gầy dựng nên mô hình nuôi thỏ khá bài bản và quy mô lớn.
Hiện anh Đở có gần 200 mét vuông chuồng trại, với tổng đàn lên đến gần 500 con, trong đó thỏ thịt gần xuất bán chiếm khá lớn. Anh cho biết, hiện tại bình quân hàng tháng anh xuất bán gần gần 100 con thỏ thịt, với giá 42 ngàn đồng/kg, sau khi trừ mọi chi phí anh thu lãi hàng tháng trên dưới 8 triệu đồng/ tháng.
Cũng có những thời điểm đàn thỏ của anh không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Không chỉ chăm lo phát triển kinh tế cho gia đình, anh Đở còn nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn kỹ thuật nuôi thỏ cho những ai có nhu cầu học hỏi kinh nghiệm để nuôi.
Từ các mô hình của anh Việt và anh Đở, hiện nay, xã Vĩnh An đã phát triển mạnh phong trào nuôi thỏ. Theo thống kê, toàn xã đã có hàng trăm hộ bắt đầu gầy dựng mô hình nuôi thỏ, quy mô mỗi hộ từ 5 đến 10 con.
Đánh giá về hiệu quả mô hình này, anh Đặng Văn Thu, Chủ tịch Hội nông dân xã Vĩnh An cho biết: Mô hình nuôi thỏ ở Vĩnh An rất khả thi. Trước đây người dân chỉ nuôi thỏ làm kiểng, nhưng 2 năm gần đây nhờ giá cả khá ổn định nên người dân đã bắt đầu nuôi và dần phát triển trên diện rộng, mà chủ yếu là hộ nghèo. Bởi vốn đầu tư nuôi thỏ là không nhiều, mà nguồn thức ăn cho thỏ rất dễ kiếm. Một người chỉ có vài trăm mét vuông đất là có thể xây dựng chuồng trại nuôi, kể cả đất trồng rau tạo nguồn thức ăn cho thỏ.
Anh Thu khẳng định, với đà phát triển này, thì từ nay đến cuối năm, Vĩnh An sẽ có trên 400 hộ tham gia mô hình nuôi thỏ. Và nếu với giá như hiện nay, thì con thỏ chính là vật nuôi xoá đói giảm nghèo bền vững của người dân địa phương.
Hiện nay,đầu ra cho thỏ thịt và thỏ giống khá thuận lợi, thương lái đến tận nơi để thu mua. Thị trường tiêu thụ mạnh là TP.HCM để cung cấp cho các nhà hàng, quán nhậu và các siêu thị. Thỏ giống thì bán cho các các hộ nông dân có nhu cầu nuôi trong và ngoài huyện.

Thu nhập khá nhờ nuôi ếch công nghiệp

        
          
Không tốn nhiều diện tích đất, có thể tận dụng đất xung quanh nhà, đất dưới tán các vườn cây là làm được hồ nuôi ếch công nghiệp. Nhiều nông dân ở xã Tiên Long, An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đang thực hiện thành công mô hình này, góp phần tăng nguồn thu đáng kể cho gia đình.
Nuôi ếch công nghiệp tại xã Tiên Long phát triển mạnh trong 3 năm nay. Năm 2010 này, toàn xã có 27 hộ dân nuôi ếch theo phương pháp công nghiệp, với khoảng 50.000 con ếch thịt mỗi năm. Đặc biệt, có 4 hộ chuyên sản xuất giống để cung cấp cho người dân có nhu cầu nuôi ếch trong và ngoài tỉnh Bến Tre.

Image
Nuôi ếch công nghiệp tại xã Tiên Long. (Ảnh: CD)

Anh Lê Trường Vũ ở ấp Tiên Phú 1, xã Tiên Long đã thực hiện mô hình nuôi ếch công nghiệp 3 năm nay. Với diện tích đất khoảng 200 m2 xung quanh nhà, anh Vũ làm hồ nuôi ếch công nghiệp đã đem về nguồn thu cho gia đình anh mỗi năm vài chục triệu đồng.
Năm 2007, anh Vũ đầu tư nuôi 12.000 con ếch thịt. Sau gần 3 tháng nuôi, anh xuất bán trên 45 triệu đồng, trừ chi phí anh còn lãi 12 triệu đồng.
Sau đợt ếch này anh Vũ để lại 70 ếch cái đồng thời mua thêm 70 ếch đực để làm ếch bố mẹ nhân giống ếch con nuôi và bán cho người dân trong và ngoài tỉnh có nhu cầu nuôi ếch công nghiệp.
Năm 2008, anh Vũ tiếp tục nuôi 6.000 con ếch thịt, bán được 25 triệu đồng, do con giống tại nhà nên khi trừ chi phí thức ăn, thuốc chăm sóc ếch, anh còn lãi 15 triệu đồng.
Ngoài ra, anh Vũ còn bán 40.000 con ếch giống với giá 1.000 đồng mỗi con thu về 40 triệu đồng. Năm 2009, cũng nuôi số lượng ếch thịt và bán ếch giống tương tự đã đem về cho anh lãi gần 50 triệu đồng.
Do nhu cầu ếch giống tăng cao, năm nay anh Vũ chủ yếu nhân giống bán cho người nuôi, chắc chắn sẽ đem về thu nhập đáng kể cho gia đình anh.
Còn chị Lê Thị Cẩm Hường, ngụ cùng ấp đang phấn khởi với 3 hồ nuôi ếch thịt phát triển tốt. Là hộ khó khăn về vốn sản xuất, năm 2008, chị được Hội nông dân xã tạo điều kiện vay vốn hỗ trợ sản xuất 8 triệu đồng đầu tư làm hồ nuôi 5.000 con ếch thịt.
Do chưa có kinh nghiệm nuôi ếch và tốn chi phí đầu tư con giống nên sau 3 tháng nuôi, xuất bán ếch chị còn lãi khoảng 2 triệu đồng. Từ đợt ếch đầu tiên, chị Hường chọn để lại 18 ếch cái và mua 18 ếch đực để nhân giống ếch con tại nhà để nuôi. Từ số ếch trên chị đã nhân ra 6.000 con ếch giống nuôi đợt này và bán 2.000 con cho khách hàng.
Chị Hường nhẩm tính: “Với số ếch đang nuôi, trong vòng chưa đầy 1 tháng nữa tôi sẽ bán khoảng 1 tấn ếch thịt. Nếu giá bán chỉ ở mức 25.000 đồng/kg như hiện tại, trừ chi phí tôi sẽ còn lãi khoảng 15 triệu đồng. Thành công bước đầu với con ếch, kế hoạch của tôi là chọn để lại 100 con ếch cái từ số ếch thịt nhằm tăng quy mô sản xuất ếch giống nuôi tại nhà và cung cấp cho khách hàng”.
Nuôi ếch công nghiệp, người nuôi chỉ cần xây hồ bằng xi măng, hoặc làm hồ theo hình thức xung quanh bao lưới, dưới đáy hồ trải bạt nylon, hoặc làm vèo trên các ao có sẵn.
Với diện tích hồ 10m2 là nuôi được từ 800 – đến 1.000 con ếch. Nuôi ếch công nghiệp không khó, người nuôi cần chú ý đến việc làm ao hồ sao cho thuận tiện trong việc chăm sóc chúng.
Khi chọn giống để nuôi ếch thịt cần chọn con khỏe mạnh, kích cỡ ếch đều nhau. Môi trường nước trong hồ, ao luôn giữ sạch bằng cách lọc, thường xuyên thay nước để loại bỏ phân và thức ăn thừa của ếch, không để nước dơ bẩn hoặc có mùi hôi.

Image
Chị Hường đang chăm sóc số ếch thịt nuôi năm 2010. (Ảnh: CD)

Trong quá trình nuôi, ếch có sự phân đàn rất lớn, ếch lớn càng lớn nhanh vì chúng ăn thịt những con ếch nhỏ, nên trong thời gian đầu lựa ếch lớn và ếch nhỏ ra nuôi riêng. Theo dõi thường xuyên để khi phát hiện ếch bị bệnh điều trị kịp thời…
Mấy năm gần đây, giá ếch nuôi dao động ở mức 25.000 đến 30.000 đồng mỗi kg, người nuôi ếch nếu chịu đầu tư nuôi một cách bài bản sẽ có lời, đặt biệt là lời khá khi chủ động được nguồn giống nuôi tại nhà.
Nuôi ếch công nghiệp tại tỉnh Bến Tre đã có nhiều năm nay, tuy nhiên do nhiều hộ nuôi chưa rành rẽ về kỹ thuật chăm sóc, chủ yếu là tự phát theo phong trào, không ít lần nông dân thua lỗ do gặp rủi ro về đầu ra của sản phẩm khi đã phát triển đại trà, người nuôi ếch công nghiệp cũng có chung tâm lý này, nên chưa mạnh dạn xem nuôi ếch là nghề và chưa thật sự đầu tư nuôi một cách bài bản.
Để nghề nuôi ếch phát triển thành một nghề thực thụ, giúp người dân xoá đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu, nuôi ếch theo hướng bền vững, nên chăng các ngành chức năng cần tăng cường công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người nuôi, cũng như thành lập tổ hợp tác nuôi ếch để giúp các hộ dân trao đổi kỹ thuật nuôi, hợp tác để cùng nhau tìm hướng đi cho sản phẩm của mình.

Thu nhập cao nhờ nuôi cá rô

In
Ông Đặng Văn Xích (thường gọi là Hai Xích) ở ấp Tân Hậu 2, xã Tân Trung, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, trong các năm 2008 – 2009 từng được bình chọn là nông dân sản xuất giỏi cấp huyện và cấp tỉnh, và được chọn tuyên dương tại Hội chợ triển lãm kinh tế nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long tổ chức ở tỉnh Vĩnh Long năm 2010 nhờ thành công với mô hình nuôi cá rô đồng. Hiện nay ông tiếp tục thành công với việc nuôi con cá rô đầu vuông.
Về xã Tân Trung, hỏi ông Hai Xích nuôi cá rô rất nhiều người biết bởi cái tính chịu khó, luôn tìm tòi trong sản xuất kinh tế. Ngay con đường vào nhà ông là hai ao nuôi cá rô được ông thiết kế bài bản, tạo sức hấp dẫn đối với những ai đến tham quan mô hình nuôi cá của ông.

Image
Ông Hai Xích nuôi cá rô đạt hiệu quả kinh tế cao.

Ông Hai Xích có 7.000 m2 đất trồng dừa và cây ăn trái, nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, ông nhận thấy mô hình nuôi cá rô đồng công nghiệp phù hợp với điều kiện vùng đất của gia đình mình. Vậy là năm 2007 ông đào ao diện tích 500 m2 nuôi cá rô đồng.
Để trang bị kiến thức nuôi cá, ông tìm đến các trại cá giống ở huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, học hỏi kinh nghiệm ươm trứng cá lên cá giống, nuôi từ cá giống lên cá thịt và kỹ thuật sinh sản nhân tạo của cá rô đồng. Sau khi nắm vững các kiến thức nuôi cá rô, ông Hai Xích mua 5 ly trứng cá rô đồng về ươm và nuôi cá thịt.
Nhớ lại lúc đem con cá rô đồng về nuôi, ông Hai Xích kể: “Không ít người bảo tôi mua cá rô về thả sông vì cho rằng loài cá này nuôi không khéo sẽ lóc đi hết. Để không mích lòng người ta, tôi trả lời chỉ nuôi thử nghiệm, chứ mình đầu tư làm ao hồ bài bản thì lo gì chuyện cá đi, chỉ lo nuôi cá có được hay không”.
Ngay lần đầu tiên nuôi con cá rô đồng đã đem về thành công cho ông Hai Xích. Sau thời gian nuôi hơn 4 tháng, hình thức nuôi cá bằng thức ăn công nghiệp, mật độ nuôi 30 con/m2, ông Hai Xích thu được 1,5 tấn cá thịt. Với giá cá bán tại ao 32.000 đồng/kg, ông thu được 48 triệu đồng, sau khi trừ các chi phí giống, cải tại ao, thức ăn, thuốc hoá chất, ông còn lãi 18 triệu đồng. Ngoài ra, từ lứa cá này, ông Hai Xích chọn được 400 cặp cá bố mẹ để sinh sản.

Image
Ao nuôi cá rô của ông Hai Xích.

Năm 2008 ông Hai Xích mạnh dạn đào thêm ao rộng 800m2 để đầu tư nuôi cá rô đồng. Ông tiếp tục đạt được thành công. Trong năm, 2 ao cá, mỗi ao nuôi 2 vụ, ông thu được 8 tấn cá thịt, trừ các khoản chi phí ông còn lợi nhuận trên 30 triệu đồng. Năm 2009, ông tiếp tục thu lãi 40 triệu đồng nhờ nuôi cá rô đồng.
Không dừng lại với thành công hiện tại, để việc nuôi cá rô đem về hiệu quả kinh tế cao hơn, ông Hai Xích đã đi tỉnh Hậu Giang tìm mua 20 cặp cá rô đầu vuông về nhân giống thay thế giống cá rô đồng. Năm 2011, sau 2 đợt nuôi cá rô đầu vuông, ông thu lãi 50 triệu đồng.
Với kinh nghiệm nuôi cá rô có được, tháng 10/2011 ông Hai Xích được Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Bến Tre chọn đầu tư mô hình nuôi cá rô đầu vuông thương phẩm và ông thực hiện rất thành công. Với 25.000 con giống thả nuôi, trong diện tích 1.100 m2, sau thời gian 4 tháng nuôi ông thu hoạch trên 4 tấn cá thương phẩm, giá bán 28.000 đồng/kg, ông lãi trên 50 triệu đồng.
Ông Hai Xích cho biết: “Ưu điểm của cá rô đầu vuông là con lớn, kích cỡ cá đực, cái bằng nhau. Cá rô đầu vuông rút ngắn thời gian nuôi còn 3,5 – 4 tháng so với cá rô đồng nuôi 5 tháng mới thu hoạch, qua đó giảm chi phí đầu tư. Nuôi cá rô đầu vuông bình quân 1 tấn cá cho ăn từ 1,3 đến 1,5 tấn thức ăn, trong khi cá rô đồng phải cho ăn từ 1,7 đến 2 tấn thức ăn.
Nuôi cá rô đầu vuông cũng như nuôi như cá rô đồng, chỉ cần nắm vững kỹ thuật nuôi sẽ dễ đạt hiệu quả. Cá rô đầu vuông nuôi không cần nước ra vào ao thường xuyên, nhưng phải chủ động nguồn nước để ngừa bệnh cho cá, cứ một con nước thủy triều thì thay khoảng 30% lượng nước trong ao một lần vì ao sinh tảo, sau đó sát trùng nước để diệt các loại mầm bệnh”.

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

Kỹ thuật nuôi heo rừng lai







Chăn nuôi heo rừng lai ngày nay không còn xa lạ với bà con chăn nuôi trong tỉnh. Thế nhưng chăn nuôi như thế nào, chăm sóc ra sao thì không phải ai cũng biết rõ. Vì vậy để chăn nuôi heo rừng lai đạt hiệu quả, bà con cần chú ý một số kỹ thuật sau:
1. Chọn giống
Nuôi heo rừng lai cũng giống như heo nhà nên việc chọn giống cũng rất quan trọng. Vì vậy bà con cần chú ý:
- Về hình thức: nên chọn những con có vóc dáng cân đối, lưng thẳng, bụng thon, nhanh nhẹn… Có màu sắc đặc trưng (màu hung đen hoặc xám đen), tính biệt rõ ràng…
- Về nguồn gốc: nên chọn mua heo ở những trại giống lớn, có uy tín nhiều năm liền.
- Con giống phải có giấy chứng nhận kiểm dịch và đã được tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm theo qui định như: lở mồm long móng, dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn…v..v.
2. Chuồng trại
Đối với heo rừng lai việc phòng bệnh là rất quan trọng, vì vậy xây dựng chuồng trại đúng cách đã góp phần rất lớn cho công tác phòng chống dịch bệnh.
- Chuồng được xây dựng đơn giản bằng gạch (khoảng 4m2 mỗi chuồng), có cửa chuồng, có mái che. Có thể xây theo kiểu hệ thống chuồng liên kề với các cửa thông nhau. Nên để một khoảng đất trống (có rào lưới chắc chắn – thường sử dụng là lưới B40) để thả heo con và để heo được sưởi nắng, diện tích tối thiểu là 4 m2/con.
- Trong khoảng đất trống nên trồng thêm một số cây để tạo bóng mát cho heo. Càng nhiều cây rậm rạp càng tốt vì chúng thích hợp với bản chất của con heo rừng.
- Trong chuồng nên có một hồ nước xây nghiêng để heo vào uống nước và dầm mình. Nó không những cung cấp đủ nước cho heo uống mà quan trọng hơn là nó sẽ duy trì được hệ thực vật phong phú tại nơi nuôi chúng và giữ được độ ẩm thích hợp.
- Chuồng nên xây trên nền đất cao ráo, dễ thoát nước, không ẩm ướt để tránh nước đọng và cũng dễ dàng vệ sinh chuồng trại. Trong nền chuồng nên treo ụ bằng lá chuối khô và rơm khô.
- Không nên tận dụng các chuồng trại cũ đã nuôi heo nhà để thả heo rừng, vì mầm bệnh tồn đọng của heo nhà có thể lây sang heo rừng. Mặt khác, khu nuôi phải cách xa khu dân cư và đường sá vì chúng luôn hoảng hốt bỏ chạy khi nghe có tiếng động.
3. Chăm sóc, nuôi dưỡng
- Giai đoạn 1 tháng trước khi sanh, heo mẹ cần được cung cấp đầy đủ và ổn định thức ăn tinh để tránh tình trạng heo con sinh ra bị xù lông, đổ ghèn, tiêu chảy, đi xiêu vẹo 2 chân sau….
- Heo con mới sinh cần được ở trong môi trường khô ráo và đủ ấm.
- Heo con một tuần tuổi cần chích bổ sung sắt. Một tháng tuổi thì tập heo con ăn bằng thức ăn tinh. Đến 1.5 tháng tuổi thì tách mẹ.
- Sau khi tách mẹ (1.5 đến 2 tháng tuổi) heo con được đưa sang chuồng rộng và nuôi ghép với nhiều bầy cùng lứa (10 đến 15 con/chuồng 400m2). Giai đoạn này rất quan trọng để heo con hình thành bộ khung, sức đề kháng để phát triển tốt. Do đó cần bổ sung thức ăn đầy đủ và bổ dưỡng, nên cho ăn thức ăn được nấu chín để dễ hấp thụ.
- Thức ăn của heo rừng chủ yếu là thực vật. Không nên lạm dụng thức ăn giàu dinh dưỡng để nuôi heo rừng vì nó sẽ làm cho chất lượng của heo rừng bị biến đổi và đôi khi heo lại bị bệnh tiêu chảy.
- Thức ăn gồm có: thức ăn xanh tươi (cây chuối, bẹ chuối, thân cây ngô non, rau muống, bèo tây, các loại cỏ, các loại quả xanh v.v.. ), thức ăn tinh (hạt ngũ cốc, củ quả, mầm cây, rễ cây các loại), muối khoáng (tro bếp, đất sét, hỗn hợp đá liếm…). Thực tế cho thấy, heo rừng thường tìm đến nương rẫy mới đốt kiếm tro, đất sét để ăn.
- Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều, một heo rừng lai trưởng thành mỗi ngày tiêu thụ khoảng 2-3kg thức ăn các loại. Ngoài ra cần phải cung cấp nước uống đầy đủ, nên sử dụng nguồn nước sạch đã qua khử trùng.
- Hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, dọn bỏ thức ăn thừa, rửa sạch máng ăn và thay nước trong hồ.
4. Phòng bệnh
Heo rừng lai là vật nuôi mới được lai tạo nên sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, heo rừng lai cũng thường bị một số bệnh như: Dịch tả, Tụ huyết trùng, Lở mồm long móng, bệnh sán lá, bệnh ghẻ lở và một số bệnh khác... Do đó cần phải tiêm phòng và định kỳ tẩy giun sán.
- Tiêm phòng vắc xin các loại bệnh như: lở mồm long móng, dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn… mỗi năm một lần.
- Định kỳ tẩy giun, sán 03 tháng một lần, trừ giai đoạn mang thai.
Lê Thị Thảo – Chi cục Thú y

Chăm sóc heo con phòng ngừa bệnh tiêu chảy


Tiêu chảy là bệnh xảy ra phổ biến ở heo con theo mẹ và heo cai sữa do các nguyên nhân như: stress, dinh dưỡng kém hoặc do nhiễm bệnh. Bệnh không gây tử vong cao nhưng gây thiệt hại rất lớn về kinh tế. Vì vậy bà con cần chú ý các vấn đề sau đây để phòng ngừa bệnh tiêu chảy trên heo con.
Chuồng trại và thiết bị chuồng trại
Chuồng trại phải cao ráo, sạch sẽ, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, tránh mưa tạt, gió lùa.
Hướng chuồng nên xây theo hướng Đông - Tây để tránh bức xạ mặt trời vì nhiệt độ quá nóng heo sẽ ăn ít và chậm lớn. Nền chuồng làm bằng bê-tông, có độ dốc 2-3%, không tô láng để tránh heo bị té sẩy chân.
Máng ăn, uống riêng biệt đúng kích cỡ. Bên ngoài chuồng có rãnh thoát phân, nước dội chuồng và hố xử lý chất thải. Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, dụng cụ, thiết bị phục vụ chăn nuôi.
Mật độ nuôi tối đa 20-30con/ô chuồng (khoảng 1-1,2m2/con). Không nên nuôi mật độ dày chúng dễ đánh nhau tranh ăn uống, khó kiểm soát.
Vệ sinh chuồng trại: chỉ quét dọn khô, thay lót chuồng bẩn, không rửa nước. Để heo con nằm trên chuồng sàn có lót rơm cắt ngắn hoặc cỏ khô. Định kỳ tiêu độc sát trùng chuồng và môi trường xung quanh bằng một trong các loại hoá chất như: BKA, Benkocid, Viskon… (Lưu ý: hoá chất sử dụng nên tuân thủ đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất).
Thức ăn và dinh dưỡng
Nhu cầu dinh dưỡng của heo thay đổi tùy theo từng giai đoạn phát triển. Giai đoạn còn nhỏ nhu cầu đạm và năng lượng cao hơn giai đoạn trưởng thành, nhưng ngược lại heo tiêu hóa thức ăn kém hơn giai đoạn sau này, do đó cần phải lựa chọn và sử dụng các loại thức ăn cho phù hợp.
Chế biến thức ăn cho heo con phải đầy đủ dinh dưỡng không để thiếu chất, đặc biệt là sắt, kẽm, vitamin…
Thức ăn hỗn hợp phải chọn loại có thành phần dinh dưỡng cao, đảm bảo số lượng, chất lượng và chủng loại, phải cung cấp đầy đủ các loại vitamin và các chất khoáng đa, vi lượng.
Thức ăn phải sạch, không ôi thiu, không nhiễm độc tố nấm mốc, nhiễm khuẩn hoặc thức ăn không rõ nguồn gốc.
Chăm sóc, nuôi dưỡng
Giai đoạn sơ sinh
Heo con đẻ ra phải lau sạch nhớt, cắt rốn, bấm răng nanh và úm ngay.
Cho heo con bú sữa đầu càng sớm càng tốt, chậm nhất là sau 2 giờ. Heo nhỏ, yếu ớt cho bú ở vú trước và chích gluconat – Ca trợ sức để heo sinh trưởng tốt và đồng đều.
Chích sắt đầy đủ cho heo con để phòng thiếu máu (chích 2 lần từ 2 – 3ngày đến 15 – 16ngày tuổi chích sắt Fedextran, Fedextrin, hàm lượng 100 – 200mg/cc, liều lượng 2 – 3cc/con).
Tập cho heo con ăn lúc 7-10 ngày để cai sữa sớm và khi cai sữa heo ăn được ít nhất 100gram thức ăn/con/ngày.
Thức ăn cho heo con giai đoạn này chủ yếu là sữa mẹ và thức ăn tập ăn sớm. (Thức ăn phải đầy đủ dinh dưỡng, dễ tiêu, ngon miệng và đảm bảo vệ sinh. Nguyên liệu dùng làm thức ăn là bột gạo, bột bắp, bột cá nhạt, bột đậu nành...)
Thường xuyên cọ rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ, không giữ thức ăn lâu trong máng dễ lên men chua gây tiêu chảy heo con.
Giai đoạn cai sữa
Cai sữa thích hợp lúc heo được 28-30 ngày tuổi, thể trọng đạt 6-7kg và ăn được ít nhất 100gram thức ăn/con/ngày.
Giai đoạn này heo con dễ bị tiêu chảy do chịu nhiều stress như: xa mẹ, không còn bú mẹ, chuyển sang thức ăn thô, ghép nhiều bầy đàn lạ…. Vì vậy cần phải giảm stress tối đa cho heo như chuyển đổi thức ăn từ từ, hạn chế ghép nhiều bầy đàn lạ. Có thể sử dụng thêm enzym trợ giúp tiêu hoá cho heo con cai sữa sớm.
Cần phải sưởi ấm cho heo con vì lúc này lớp mỡ dưới da chưa phát triển nên chịu lạnh kém. Đặt bóng đèn ở độ cao 50-60 cm so với mặt sàn chuồng và quan sát heo con để điều chỉnh nhiệt độ, nếu thấy:
- Heo nằm chồng chất lên nhau, run là nhiệt độ trong chuồng thấp.
- Heo nằm tản mác khắp ô chuồng, mỗi con một nơi là nhiệt độ trong chuồng quá cao.
- Heo nằm con nọ kề cạnh con kia là nhiệt độ thích hợp.
Cung cấp thức ăn đầy đủ dinh dưỡng, dễ tiêu, dễ hấp thu, có mùi vị hấp dẫn và không nhiễm tạp khuẩn (E.coli, Samonella, C.perfrigens…)
Giai đoạn sau cai sữa
Sau khi tách mẹ 7-10 ngày, có thể chuyển heo con đến chuồng sau cai sữa nhưng không nên tách đàn để hạn chế stress.
Chăm sóc nuôi dưỡng heo sau cai sữa thật tốt, đặc biệt là lúc mới chuyển heo từ chuồng sàn sang chuồng nền, heo dễ mắc bệnh. Phải dùng các loại thức ăn hỗn hợp có chất lượng tốt, đáp ứng tối đa nhu cầu heo con. Không chuyển đổi thức ăn đột ngột dễ gây rối loạn tiêu hoá cho heo con.
Bổ sung vitamin, Bcomplex tăng cường sức đề kháng cho heo và chích đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh truyền nhiễm như: lở mồm long móng, dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn..v..v.
Chúc bà con chăn nuôi thành công!
Lê Thị Thảo – Chi cục Thú y

Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012

Qui Trình KT Nuôi Thương Phẩm Cá Lóc Bông Trong Ao


1. Chuẩn bị ao nuôi :
Ao nuôi lóc bông có diện tích từ 500m2 trở lên, độ sâu từ 2,5-3m. Bờ ao phải cao và chắc chắn, không bị lỗ rò. Cống thoát nước nằm sát đáy ao và có khẩu độ lớn để nước thoát dễ dàng. Trước khi thả cá nuôi, ao được tát cạn, vét bớt bùn đáy, tu sửa chỗ sạt lở, lấp hết hang hố quanh ao. Rải vôi đáy ao từ 10-15kg/100m2, phơi nắng 2-3 ngày rồi cấp nước vào ao. Nguồn nước cấp cho ao phải chủ động, cấp thoát dễ dàng, nước không bị nhiễm phèn và mặn (pH phải từ 6 trở lên, độ mặn dưới 5o/oo).
2. Mùa vụ nuôi, cá giống và mật độ thả :
Ở các tỉnh Nam bộ có thể thả nuôi quanh năm. Các tỉnh có khí hậu lạnh như miền bắc nên nuôi một vụ, thả cá nuôi vào tháng 3-4 và thu hoạch cá vào trưcớ mùa đông.
Cá giống thả nuôi có kích cỡ đồng đều, trọng lượng thân từ 15-20g/con. Cá phải khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, màu sắc sáng, cơ thể cân đối, nhiều nhớt. Trước khi thả xuống ao nuôi, cá giống được tắm nước muối nồng độ 2,5-3%. Nên thả cá vào lúc trời mát, buổi sáng sớm hoặc chiều mát.
Mật độ thả nuôi tại Hà Tây : 2-4 con/m2. Có thể tăng mật độ nuôi lên nếu các điều kiện như : nguồn nước, nguồn vốn, trình độ kỹ thuật… đảm bảo.
3. Thức ăn, quản lý và chăm sóc cá nuôi :
3.1. Thức ăn cho cá nuôi :
+ Thức ăn chủ yếu là là tạp biển, cá vụn, tép, cua, ốc và phụ phẩm lò mổ gia súc, gia cầm. Giai đoạn cá còn nhỏ trong 2 tháng đầu, thức ăn cần được xay nát hoặc băm nhỏ. Khi cá lớn thì chỉ cần băm nhỏ hoặc cắt khúc những lợi thức ăn có kích cỡ quá lớn hoặc dài. Khẩu phần ăn từ 3-5% trọng lượng thân (khi cá đạt cỡ >100g/con). Cá càng lớn thì khẩu phần ăn càng giảm dần.
Có thể chế biến thức ăn từ các nguyên liệu như trên xay nhỏ và trộn với cám hoặc tấm nấu chín rồi rải trên sàn cho cá ăn, trong đó cá tạp chiếm 50% trở lên. Nói chung hàm lượng đạm trong thức ăn phải đảm bảo từ 25-35% trở lên thì mới đạt được theo nhu cầu dinh dưỡng của cá. Giai đoạn đầu cho đến 2 tháng tuổi, hàm lượng đạm trong thức ăn đảm bảo 35%, sau đó giảm dần xuống còn 28%, ở các tháng cuối còn 25%. Khẩu phần ăn với thức ăn chế biến từ 5-7% trọng lượng thân.
Sàng ăn của cá có kích thước dài từ 3-4m, rộng 0,5m và đặt gần bờ, ngập sâu trong nước khoảng10cm. Khi cá ăn cá trườn lên sàn để dành thức ăn. Sau khi cá ăn và trước bữa ăn mới, nên rửa sạch sàng ăn.
Hệ số tiêu tốn thức ăn tuỳ thuộc vào chủng loại và chất lượng thức ăn. Với thức ăn là cá biển (cá tạp), hệ số thức ăn trung bình từ 3,5 - 4 (tức là cứ cho cá ăn 3,5-4kg cá tạp thì tăng trọng được 1kg cá lóc bông). Thức ăn chế biến cho hệ số thức ăn từ 3,2 - 4.
3.2. Chăm sóc cá nuôi :
Hàng ngày theo dõi chặt chẽ mức độ ăn của cá để điều chỉnh kịp thời và hợp lý số lượng thức ăn. Hàng tháng kiểm tra cân đo trọng lượng cá để theo dõi mức tăng trưởng của cá.
Nước trong ao được thay mỗi tháng 1-2 lần, mỗi lần thay từ 30-40% tổng lượng nước trong ao.
Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá và kịp thời phát hiện những dấu hiệu khác lạ như cá bỏ ăn, bơi không bình thường, nhiễm bệnh… để có biện pháp chữa trị kịp thời.
4. Phòng và trị bệnh cho cá lóc bông :
4.1. Bệnh do nhiễm khuẩn : Cá bị bệnh thì da sậm lại và vết này lan ra vùng bụng và các phần khác trên cơ thể, vẩy dễ rơi rụng, mắt phù và mờ đục, xoang bụng chứa dịch, nội tạng hoại tử. Tỷ lệ chết rất cao khi cá bị sốc và thiếu dinh dưỡng.
* Phòng trị bệnh :
- Không nuôi mật độ quá cao, tránh làm cho cá bị sây sát khi kéo lưới hoặc đánh bắt kiểm tra, giữ cho môi trường nuôi không bị nhiễm bẩn do thức ăn dư thừa và từ các nguồn nước thải công nghiệp…
- Dùng thuốc tím (KMnO4) tắm cá, liều dùng 10g/m3 nước cho cá nuôi, xử lý lặp lại sau 3 ngày. định kỳ tắm cho cá 2 tuần/lần.
- Hoặc dùng một trong các loại kháng sinh trộn vào thức ăn liều lượng như sau:
+ Streptomycin : 50-70mg/kg thể trọng cá nuôi, liên tục
+ Kanamycin : 50mg/kg thể trọng cá, liên tục trong 7 ngày
- Tăng cường thêm Vitamin C trộn vào thức ăn, liều lượng 20mg/kg thức ăn trong thời gian dùng thuốc trị bệnh. Cải thiện chất lượng nước, thay nước mới sạch, đảm bảo hàm lượng Oxy hoà tan trên 4mg/l.
4.2. Bệnh đóm đỏ : Cá bị bệnh là xuất huyết trên da, bụng, xung quanh miệng, nắp mang có thể chảy máu, một vài chỗ trên thân, có thể bị tuột nhớt.
* Phòng trị bệnh : Dùng thuốc tím KMnO4 3-5g/m3 nước để tắm cho cá bè. Dùng kháng sinh để điều trị như trong bệnh nhiễm khuẩn huyết.
4.3. Bệnh trùng mỏ neo : Trùng ký sinh và hút chất dinh dưỡng của cá làm viêm loét da, mang, vây, gây ra các vết thương tạo điều kiện cho các tác nhân khác gây bệnh như : nấm, ký sinh trùng, vi khuẩn… xâm nhập.
* Phòng trị bệnh :
- Luôn giữ vệ sinh ao, bè cẩn thận, sạch sẽ trong quá trình nuôi
- Chọn giống kỹ và không có trùng mỏ neo đeo bám
- Trước khi thả phải tắm nước muối 3% cho cá trong 10 phút
- Khi phát hiện cá nhiễm bệnh, dùng thuốc tím 10-25g/m3 tắm trong một giờ. Có thể dùng lá xoan ngâm dưới nước liều lượng 0,3-0,5kg/m3.
4.4. Bệnh rận cá : Chúng ký sinh bám trên da cá, hút máu cá đồng thời phá huỷ da cá, làm viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm ký sinh trùng khác xâm nhập và gây bệnh cho cá nuôi.
* Phòng trị bệnh :
Khi cá nhiễm bệnh, dùng thuốc tím (KMnO4) với nồng độ 10g/m3 tắm hoặc ngâm trong 1 giờ.
Kĩ sư : Hoàng Tiến Minh

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

MÔ HÌNH NUÔI BỒ CÂU

Những năm gần đây, các món ăn từ bồ câu được xem là một trong những đặc sản của quê hương, nhiều thực khách rất ưa chuộng. Từ giá trị thương phẩm, nhiều nhà nông nghiên cứu, học tập kinh nghiệm nuôi bồ câu thu được kết quả khá cao.
Những năm gần đây, do nhu cầu phát triển của thị trường, những loài vật nuôi trước đây thường dùng để nuôi kiểng như gà sao, chim trĩ, hay bồ câu,… đều được nuôi khai thác lấy thịt. Nhiều hộ nông dân nắm bắt được tình hình, cũng nhanh chóng tìm tòi, nghiên cứu cách chăn nuôi thương phẩm các loài này để tăng thu nhập cho gia đình. Riêng với mô hình nuôi bồ câu, hiện nay ở ĐBSCL cũng có không ít nông dân nuôi làm kinh tế thành công. Với gia đình của ông Nguyễn Văn Chính, tại ấp Long Bình A, xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, là người đầu tiên của địa phương nuôi bồ câu bán thịt. Mô hình đang được đánh giá khá cao, phù hợp với yêu cầu ứng dụng mô hình xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người dân tại đây.
Trong khi trên địa bàn xã Long Hưng hiện có nhiều bà con ứng dụng mô hình trồng ổi để phát triển kinh tế gia đình, thì ông Nguyễn Văn Chính lại chọn mô hình nuôi bồ câu. Vợ chồng ông cho biết, do hoàn cảnh đơn chiếc, 6 – 7 người con đều đã có sự nghiệp riêng, sống xa nha, ông bà chỉ có mảnh vườn để dưỡng già. Đến lúc cần một công việc nhẹ nhàng, phù hợp với sức khỏe của mình thì ông bà đã chọn mô hình nuôi bồ câu này.
Với diện tích chuồng trại chưa đầy 100 m2, ông bà thiết kế 2 lớp chuồng lồng, nuôi được trên 120 cặp bồ câu sinh sản. Mỗi ngày ông bà chỉ bỏ ra vài tiếng đồng hồ để chăm sóc cho chúng, mỗi tháng có thể bán trên 60 cặp bồ câu thịt, thu lãi vài triệu đồng.
Với kết quả khả quan về mô hình này, lẽ ra, gia đình ông bà Chính có thể mở rộng thêm gấp 2 đến 3 lần so với hiện tại, tuy nhiên do tình trạng sức khỏe không cho phép, ông bà chỉ chăm sóc được có bấy nhiêu. Nhiều nông dân khác trong xã đến học tập kinh nghiệm, ông bà cũng sẵn sàng chia sẻ.
Ông cho biết, nếu bà con nông dân có nhiều thời gian chuyên tâm vào việc nuôi bồ câu thì hiệu quả sẽ còn tăng hơn mức của gia đình ông hiện nay. Ông cho biết, do bồ câu sinh sản nhanh, lứa cũ chưa biết tự ăn đã có lứa mới, ông bà không có thời gian bơm thức ăn cho lứa cũ nên có khi phải điều tiết cho chúng sinh sản chậm lại. Ngoài ra, ông cũng chia sẻ, nên làm chuồng trị nuôi bồ câu trên nền tráng xi măng là phù hợp nhất, chuồng phải đảm bảo sạch sẽ thoáng mát , có ánh nắng rọi vào sẽ tốt cho vấn đề vệ sinh phòng bệnh vật nuôi.
Được biết ngoài thu nhập từ bồ câu, hàng tháng ông bà còn tận dụng đất vườn trồng thêm chuối cau, đu đủ, thu nhập cũng trên 2 triệu đồng; đó là chưa kể nguồn thu ổn định hàng năm gần 200 triệu đồng từ 1,5 ha vườn vú sữa Lò Rèn 7 năm tuổi này.
Bà con lân cận cũng như chính quyền địa phương cảm thấy tự hào khi giới thiệu về gương lao động của đình ông Nguyễn Văn Chính. Trước nay nhiều năm, ông bà cũng từng thành công với những mô hình như nuôi heo, nuôi dê, trồng quýt đường, trồng nhãn,… và được UBND tỉnh Tiền Giang khen tặng là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cấp tỉnh nhiều năm liền từ 1995 đến 2007. Những năm gần đây, do bệnh nên lao động cũng có phần hạn chế, vậy mà ông bà vẫn rất chí thú làm ăn, chịu khó đầu tư cho mô hình khá mới mẻ này.

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012

Lấy thỏ nuôi... trâu, gà, vịt


 
Ở xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, Thừa Thiên- Huế, ông Phạm Quang Dũng (thôn Di Đông) được coi là một trong những người tiên phong trong chăn nuôi, đặc biệt là nuôi thỏ.
Dẫn chúng tôi đi thăm những dãy chuồng nuôi thỏ san sát nhau, ông Dũng kể: “Ba năm nay, gia đình tôi nhờ thỏ mà "phất" lên. Từ ngày nghỉ hưu, tôi cùng với vợ chăn nuôi cũng đủ ăn. Năm 2009, con trai thứ của tôi đem về 2 con thỏ nuôi chơi, thấy thỏ rất dễ nuôi, không kén thức ăn, nếu nuôi càng nhiều thì hiệu quả kinh tế càng cao, nên tôi quyết định làm 15 ô chuồng nuôi thỏ”.


Ông Phạm Quang Dũng bên đàn thỏ giống.

Từ 2 con thỏ giống ban đầu, đến nay ông đã có 150 con, trong đó có 15 con thỏ giống, 50 con thỏ thịt, 85 thỏ con. Nhờ nắm vững kiến thức về chăn nuôi, thực hiện nuôi thỏ theo chu trình khép kín, chủ động từ khâu con giống đến khi xuất bán, lại chủ động phòng tránh dịch bệnh, nên đàn thỏ phát triển khá nhanh.

Theo ông Dũng, thỏ giống nuôi 5-6 tháng thì bắt đầu sinh sản, bình quân mỗi năm đẻ 9 -10 lứa, mỗi lứa trung bình từ 5 - 8 con. Sau 10 ngày, thỏ con mở mắt, tập ăn cùng mẹ, 25 ngày thì tách mẹ. Nuôi 3 - 4 tháng, thỏ con đạt trọng lượng trung bình 1,8 kg/con. Thỏ mẹ sau 30 ngày có thể cho giao phối lại.

Ông Dũng vừa xuất chuồng 30 con thỏ thịt, 15 con thỏ nái chuẩn bị đẻ, thu nhập 7 triệu đồng. Trung bình mỗi tháng, ông xuất bán từ 100- 120kg, với giá bán khoảng 80.000 đồng/kg. Riêng thỏ giống giá 300.000 đồng/con. Trừ chi phí, ông lãi khoảng 6 triệu đồng. Trung bình, mỗi năm ông có thu nhập 60 triệu đồng. Tiền bán thỏ được ông đầu tư nuôi 10 con trâu, 50 con gà, 50 con vịt. Hiện gia đình ông có 4 con trâu, 20 con gà, 30 con vịt.

Ông cho biết, năm 2011 tổng thu nhập của gia đình gần 200 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 100 triệu đồng. Kế hoạch tới đây, gia đình ông tiếp tục đầu tư 50 triệu đồng mở rộng chuồng trại nuôi thỏ và 100 con gà thịt.

Theo danviet.vn

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

Trang trại chăn nuôi gà của anh Ba Hưng ở xã Lộc Vĩnh

Trong thời gian qua, trên địa bàn huyện Phú Lộc đã phát triển nhiều mô hình chăn nuôi mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, như nuôi nhím, kỳ đà, heo rừng, gà sao...Tuy quy mô các mô hình còn hạn chế nhưng bước đầu đã mở ra hướng phát triển kinh tế gia đình phù hợp với điều kiện của từng vùng.
Chúng tôi đến thăm trang trại nuôi gà của anh Ba Hưng ở xã Lộc Vĩnh, trong khu vườn rộng, anh xây dựng 4 trại nuôi riêng biệt, mỗi trại một loại gà khác nhau; không như các trang trại khác chủ yếu là nuôi giống gà công nghiệp; ở trang trại của anh chỉ nuôi các loại gà có giá trị cao đang được thị trường yêu thích, như gà ta lai gà đá, gà Ai Cập, gà Sao, gà H’Mông...
Anh Ba Hưng cho biết: gia đình anh sống ở Đà Nẵng, sau những lần về thăm quê ngoại, thấy vườn tược rộng thoáng nhưng việc trồng cây cối hiệu quả không cao, từ đó anh nảy sinh ý tưởng phát triển các khu vườn này thành các trại nuôi gà hàng hóa, anh đã lặn lội đi tìm hiểu các trại gà trong vùng và từ năm 2010, anh bắt đầu xây dựng trang trại nuôi gà Sao ngay tại xã Lộc Vình.
Trong 2 năm 2010, 2011, mỗi lứa anh thả nuôi 1000 con gà Sao, một phần được bán gà thịt, một phần để đẻ trứng nhân giống. Một chu kỳ nuôi gà thịt là ba tháng rưỡi.
Anh cho biết gà Sao là giống có sức đề kháng cao, ít bị bệnh dịch, giá bán cao hơn gà ta 20 ngàn đồng/kg, trứng gà Sao cũng được bán với giá gần gấp đôi trứng gà ta, tức từ 5 đến 7000 đồng/cái tùy từng thời điểm. Bất cứ loại gà nào, khi bán anh đều đảm bảo nuôi đủ 3,5 tháng, theo anh gà nuôi đủ tháng thì chất lượng thịt mới thơm ngon. Vì vậy nhiều khách hàng đến mua nhưng do chưa đủ tháng nuôi anh đều từ chối bán.
Từ cuối năm 2011, anh đã đầu tư mở rộng quy mô nuôi, ngoài gà Sao anh đã đưa về thêm các loại giống mới có giá trị kinh tế cao như giống gà ta lai gà đá, gà Ai Cập, gà H’Mông...giống gà H’Mông có đặc điểm là chân có 5 móng, nhiều hơn các loại gà khác một móng, ngoài giá trị dinh dưỡng cao trong Đông y còn được dùng làm bài thuốc chữa bệnh. Ngoài ra anh còn đầu tư mua một máy ấp trứng với công suất 1500 trứng để tạo con giống cho trang trại và cung cấp cho các hộ nuôi khác.
Trao đổi với chúng tôi, anh cho biết thời gian đầu mở trại nuôi anh chưa hiểu biết nhiều nên gặp không ít khó khăn, tuy nhiên sau thời gian nuôi cho thấy mô hình này mang lại hiệu quả kinh tế cao và rất thích hợp để phát triển mạnh ở các vùng đất còn diện tích đất đai rộng rãi, thoáng đãng như tại Lộc Vĩnh này, anh cũng sẳn sàng hỗ trợ giúp đỡ mọi người về giống, kỹ thuật để cùng phát triển mô hình chăn nuôi này...
Hiện nay trang trại của anh đang nuôi hơn 1000 con, chủ yếu là gà đẻ, trong đó có hơn 200 con gà Sao, 400 con gà Ai Cập, 200 con gà Mông và gần 250 con gà ta. Anh cho biết, giá gà ta, gà Ai Cập tuwong đương nhau, còn gà H’Mông và gà Sao thì đắt hơn một ít; qua thực tế nuôi, anh cho biết: cứ thả nuôi 1000 con, sau khi trừ các loại chi phí khoảng 80 triệu đồng, phần lãi ròng còn hơn 40 triệu đồng, với gà Sao thì lãi còn cao hơn, ước tính trên 50 triệu đồng, do giống gà này dễ nuôi, ít bệnh, thức ăn đa dạng, thời gian đầu ăn thức ăn chế biến sẵn còn khi gà đã lớn cho thêm các loại thức ăn khác sẵn có , chủ yếu là rau, bèo...vừa dễ mua, vừa rẻ tiền.
Ông Bùi Ngọc Ga - Chủ tịch UBND xã Lộc Vĩnh thì cho biết: Chính quyền địa phương luôn tạo điều kiện các mặt để hỗ trợ phát triển các mô hình chăn nuôi mơi hiệu quả cao và đề nghị Nhà nước bằng các chương trình khuyến nông để hỗ trợ người dân chuyển đổi vật nuôi có giá trị cao nhằm giải quyết việc làm, thu nhập cho người dân trong khu KT Chân Mây-Lăng Cô khi mà đất đai sản xuất nông nghiệp ngày càng bị bó hẹp do thu hồi để xây dựng các dự án... Mặt khác, các loại vật nuôi đặc sản này còn là nguồn thực phẩm chất lượng cao, an toàn để cung cấp cho các nhà hàng, đáp ứng nhu cầu của du khách khi đến với vùng đất này.
Anh Ba Hưng còn cho biết thêm: Thời gian đầu, do chưa quen với thị trường nên việc tiêu thụ gặp khó khăn, tuy nhiên từ cuối năm 2011, sau khi biết các giống gà anh nuôi đều cho chất lượng thịt thơm ngon, gà xuất chuồng đúng thời gian, đảm bảo an toàn sạch bệnh... nên nhiều khách hàng là các nhà hàng, khách sạn ở Đà Nẵng, Lăng Cô đã tìm đến mua với số lượng lớn.
Không dừng lại ở đây, anh đang chuẩn bị xây dựng một trang trại mới ngay tại xã Lộc Vĩnh để mở rộng quy mô nuôi lên khoảng 20 ngàn con/ năm với vốn đầu tư hơn 500 triệu đồng.
Bài, ảnh: Văn Nhân

Tỷ phú rắn ri voi


(Dân Việt) - Khắp tay chân cựu chiến binh Lê Hùng Minh đầy thẹo, không phải vết bom đạn của những ngày còn phục vụ quân đội mà do... rắn cắn. Sau bao vất vả, anh đã thành tỷ phú nhờ con vật không ai thích gần gũi này.

Đổi đời từ những con rắn còn sót lại
Trở về từ những cuộc chiến đấu ác liệt, sau hơn 20 năm phục vụ đất nước, năm 1992 anh Năm Minh (tên thường gọi của Lê Hùng Minh-t hương binh 3/4, ở khu 3, xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng) trở về quê bắt đầu cuộc mưu sinh. Chỉ với 2.000m2 đất ruộng không màu mỡ (dành 200m2 cất nhà), cũng như bao gia đình nông dân khác, vợ chồng anh và hai con nhỏ bắt tay ngay vào thực hiện các mô hình lúa – cá, cua; lúa – tôm nhưng vẫn trầy trật với cái ăn.
Anh Minh chăm sóc đàn rắn ri voi.
Năm 1996, khi các tỉnh ĐBSCL rộ lên phong trào nuôi trăn thịt, trăn đẻ, anh cũng dốc hết vốn liếng, vay mượn người thân, bạn bè được tổng cộng 150 triệu đồng mua 70 con trăn thịt về nuôi làm giống sinh sản. Trăn vỗ béo chuẩn bị phủ nọc, cầm chắc lời vài chục triệu đồng, đùng một cái, giá trăn thịt đột ngột giảm từ 150.000 đồng/kg xuống còn 20.000–25.000 đồng/kg và trăn con từ 100.000 đồng/con rớt xuống còn 5.000 đồng/con.
Anh chạy đôn đáo bán trăn con nhưng không ai mua, thậm chí cho không cũng chẳng ai nhận. Bao nhiêu tiền bạc dành dụm, vay mượn bỗng chốc thành mây khói. Thế là trắng tay với một món nợ khổng lồ. Không nản chí, anh lại rong ruổi tìm hiểu thị trường chuẩn bị làm ăn mới.
Thời điểm ấy, ở quê anh nhiều người đổ xô vào nuôi tôm sú thì anh lại nuôi rắn ri voi bởi anh nghĩ, số lượng rắn ri voi trong môi trường tự nhiên không còn nhiều. Từ suy nghĩ đó, năm 1998 anh “liều mình” chạy nợ, vay mượn người thân trên 100 triệu đồng, mạnh dạn đầu tư đào ao, xây tường cao 2m trên diện tích 1.700m2 và bắt tay vào làm cái chuyện ngược đời: Nuôi rắn ri voi.
Anh tận dụng lu, hũ có sẵn trong nhà và đặt thương lái mua 1.200kg rắn giống ri voi (loại 200 – 400g/con – khoảng 7.000 con). Anh nghĩ có lẽ đây là lần thử thời vận cuối cùng, hy vọng con rắn ri voi sẽ không bạc đãi mình. Nhưng đúng là “gian nan thử sức”, do nguồn con giống trôi nổi, chất lượng kém nên chỉ sau 2 tháng nuôi, đàn rắn đã lủi đầu vào bờ chết trên 6.000 con, gần một tấn rắn coi như tiêu.
Tình cảnh của anh lúc bấy giờ thật bi đát, nhất là số nợ vay trả lãi mỗi ngày gần 200.000 đồng. “Nợ nần chồng chất, thất bại nối tiếp thất bại khiến tôi không dám đi đâu, tưởng chừng không gượng dậy nổi” - anh nhớ lại. Còn nước còn tát, anh cố gắng chăm sóc, nuôi dưỡng số rắn còn lại.
Vốn là một y sĩ quân y nên anh không để yên cho mấy xác rắn, anh đã phẫu thuật và tìm ra được nguyên nhân: Rắn chết hàng loạt là do con người. Anh giải thích: “Rắn ri voi ở ngoài đồng là loài hung dữ nên khi bắt rắn thường bị đập, xung điện và một số thương lái chích nước vào thân cho nặng ký”.
Tháng Bảy mưa dầm quê anh buồn lắm, anh đi dạo quanh ao nhưng thật bất ngờ, mép ao xuất hiện rất nhiều rắn ri voi con. Từ đây, anh bắt đầu nghĩ đến việc cho rắn sinh sản lấy con giống. Cuối năm đó, số rắn còn sót lại thu hoạch được 350kg, định bán đi trả bớt nợ nhưng nghĩ tới cảnh phải chầu chực mua rắn giống trôi nổi, chất lượng không đảm bảo nên anh bấm bụng để lại gầy giống. Kẹt tiền, anh chạy đi moi đầu này, lắp đầu kia. Và cuộc đời anh nông dân – thương binh này sang trang mới nhờ những con rắn ri voi còn sót lại trong ao.
“Bén duyên” với rắn ri voi
Vừa nuôi rắn, anh vừa ngược xuôi lên xuống Cần Thơ, Vĩnh Long học hỏi kinh nghiệm những người đi trước. Từ những điều học hỏi được, anh cải tạo mô hình hoàn chỉnh hơn, phù hợp với môi trường tự nhiên. Dưới ao, anh trồng lục bình và xây dựng ở giữa ao một cù lao để rắn ri voi trú ẩn khi lột da, bởi qua nghiên cứu anh biết loài rắn này thích hợp sự yên tĩnh, ấm mùa đông, mát mùa hè để phòng bệnh viêm phổi và ngoài da. Vừa nuôi rắn thương phẩm, anh vừa học “đỡ đẻ” cho rắn ri voi. Rắn ri voi không ấp trứng mà đẻ con.
Qua một năm “đỡ đẻ” cho rắn ri voi, Năm Minh nắm được cả chu kỳ sinh sản của chúng. Lứa rắn đẻ đầu tiên, anh nuôi hết. Mùa tết năm 2000, anh Minh thắng lớn, xuất sang Trung Quốc trên 500kg rắn thịt, thu lãi gần 120 triệu đồng. Cuối năm 2001, Năm Minh thở phào nhẹ nhõm khi trả xong tất cả nợ nần nhờ trúng mùa rắn với lãi ròng gần 300 triệu đồng. Anh bắt đầu “bén duyên” với rắn ri voi.
Tiếp chuyện chúng tôi, anh Minh kể lại những ngày theo lái xuất rắn đi Trung Quốc: “Nghe nói người Trung Quốc rất thích ăn rắn vào mùa đông, nhất là rắn ri voi, tôi đi thử vài chuyến. Dù chỉ bán bên này biên giới nhưng giá đã 400.000 đồng/kg, sang Trung Quốc giá 1 triệu đồng/kg”.
Hiện nay, nuôi rắn là một loại hình kinh doanh siêu lợi nhuận, thị trường lúc nào cũng khan hiếm. Nhờ vậy mà những năm gần đây, mỗi năm anh Minh xuất bán trên 4 tấn rắn thịt, nuôi 4.000 rắn nái đẻ, cung cấp khoảng 130.000 rắn giống theo đơn đặt hàng, thu về trên tỷ đồng.
Cũng theo lời Năm Minh, nuôi rắn hầu như chẳng tốn công sức gì. Mỗi ngày 2 lần đi dạo quanh ao xem rắn có gì khác lạ không. Nếu thấy biểu hiện lạ thì thay nước, toàn làm bằng máy móc cả nên chẳng vất vả gì. Rắn ri voi thích hợp nhiệt độ 25 – 30 độ C. Rắn mới đẻ nuôi 1 năm đạt trên 1kg. Rắn ăn cũng hết sức đơn giản, chỉ cần đổ cá còn sống xuống ao, rắn sẽ tự bắt để ăn (chủ yếu là cá trê, lươn, bởi rắn ri voi không ăn cá có vảy).
“Trước hết phải có chí, bền bỉ, quyết tâm. Yếu tố quan trọng thứ hai là kỹ thuật, con bố mẹ phải thật tốt. Nếu hội đủ các điều kiện trên nhất định sẽ thành công, tỷ lệ rủi ro chỉ còn 5 – 10%”.
Rắn 1kg có thể ăn được con mồi 1,5kg, mật độ nuôi 7 – 15 con/m2. Rắn 1 năm tuổi bắt đầu sinh sản, con cái nặng 3kg có thể đẻ 40 rắn con (mùa đẻ từ tháng 7 – 9 âm lịch). Trừ mọi chi phí, một con rắn nuôi cho lời thấp nhất 130.000 đồng/kg, mùa đông trên 300.000 đồng/kg.
Mặc dù nuôi hàng ngàn con rắn đẻ, nhưng chỉ một tay anh quán xuyến mọi chuyện, chị Thủy - vợ anh thì tất bật với quán lẩu rắn, hai con trai anh tốt nghiệp ngành thủy sản Đại học Cần Thơ đều đã đi làm. Từ đôi tay trắng gầy dựng, từ hai lần sạt nghiệp nợ nần, cuối cùng, con rắn ri voi đã giúp Lê Hùng Minh nên cơ nghiệp.
Làm giàu trong gian khó nên anh rất thương người nghèo, nhiều người được anh cưu mang cho mượn đất cất nhà, cho mượn vốn làm ăn. Không hề giấu nghề, anh Minh sẵn sàng hướng dẫn, tư vấn kỹ thuật cho người dân có nhu cầu nuôi rắn thương phẩm

Lập nghiệp bằng mô hình chăn nuôi hỗn hợp

Trong khi nhiều thanh niên nông thôn tìm cách đi làm ăn xa thì Phạm Nguyễn Hữu Tiến (26 tuổi), ở xã Phú Thanh, H.Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế quyết tâm gắn bó và làm giàu ngay trên chính mảnh đất quê mình bằng mô hình chăn nuôi hỗn hợp.
Học xong THPT, Tiến không chọn con đường thi vào ĐH, CĐ, hay THCN như các bạn cùng quê mà xin được ở nhà làm kinh tế. “Nhiều người quan niệm cứ phải vào ĐH, CĐ hay phải học lấy một nghề nào đó thì mới thành công nên không còn mặn mà với ruộng đồng. Nhưng đâu phải ai cũng thành công với quan niệm ấy”, Tiến cho hay. Với suy nghĩ “khó khá lên được nếu chỉ làm ruộng”, Tiến bắt đầu tìm tòi, học hỏi và ấp ủ ước mơ làm kinh tế.
Tận dụng lợi thế đất nhà rộng, Tiến đầu tư làm chuồng trại nuôi gà kiến, ngan, lợn nái, chim bồ câu và thỏ. Bước đầu cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là về kỹ thuật nuôi, nhưng bằng tinh thần “có khó khăn mới thành công”, Tiến đã tích cực tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học. Ngoài ra, Tiến còn lặn lội tìm vào các trang trại ở tỉnh Gia Lai để học tập kỹ thuật chăn nuôi. Nhờ vậy, mô hình của Tiến ngày càng hoàn chỉnh quy trình và từng bước mang lại kết quả.
 
Mô hình chăn nuôi hỗn hợp của Tiến lúc nào cũng có hơn 100 gà đẻ, 100 gà thịt, 150 gà con (tự ấp nở), 100 thỏ đẻ, 50 thỏ thịt, 60 thỏ con, 80 cặp bồ câu bố mẹ, 40 cặp bồ câu ra ràng, 30 con ngan và 5 lợn nái. Trung bình mỗi năm Tiến thu nhập từ trang trại của mình gần 500 triệu đồng. Bên cạnh việc chăn nuôi, Tiến còn thể hiện vai trò của một nông dân thực thụ khi trực tiếp sản xuất 3 ha lúa với sản lượng từ 15-18 tấn và thu từ lúa hơn 100 triệu đồng/năm.
Là một ông chủ trại với mô hình phát triển kinh tế bề thế, Tiến còn là một cán bộ Đoàn nhiệt tình, năng nổ luôn được đoàn viên, thanh niên tin yêu, mến phục. Với những kiến thức và kinh nghiệm tích lũy được trong việc sản xuất kinh doanh, Tiến luôn sẵn sàng giúp đỡ, hướng dẫn về kỹ thuật cho nhiều thanh niên ở các địa phương lân cận đến tìm hiểu về mô hình.
Nói về tạo việc làm cho thanh niên tại quê nhà, Tiến trăn trở: “Thanh niên nông thôn hiện rất khó khăn về nguồn vốn để lập nghiệp, nên thường phải bươn chải vào nam hay ra bắc làm thuê. Tạo việc làm cho thanh niên nông thôn trước hết cần phải có chính sách hỗ trợ về vốn để họ có đồng vốn ban đầu, có như vậy họ mới có thể mạnh dạn trong việc phát triển kinh tế ngay trên mảnh đất quê hương của mình”.
Minh Phương

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012

Nhà nông làm giầu - Triệu phú từ nghề nuôi ba ba

Bảy Trọng chợt rùng mình khi nhắc đến 5 lần thất bại liên tiếp với nghề nuôi ba ba. Trời không dám đùa với kẻ liều, đến lần thứ 6, anh thắng lớn, lãi ròng đầu tay thu về gần 500 triệu đồng.


Ông bà ta có câu “quá tam ba bận”. Đằng này, đến 5 lần thất bại te tua, sao không nản lòng? Bật cười khà khà với chất giọng rặt Nam Bộ, Bảy Trọng lý sự: “Nếu bỏ cuộc làm gì có ngày hôm nay để nói đây?”. Anh chợt hạ giọng: “Chưa nghe ai nuôi ba ba gặp thất bại ê chề như tui. Nhưng nhờ “dzậy” mà bây giờ tui có thêm nghề… viết sách hướng dẫn nuôi ba ba nè”. Đoạn Bảy Trọng quày quả chạy vào nhà, lấy ra tập giấy học trò ghi chi chít những thông số kỹ thuật về ba ba khoe: “Tui sẽ in thành sách cho bà con mình đọc, để học mà nuôi”.
Học phí trả bằng nước mắt
Trường hợp của “triệu phú ba ba” Bảy Trọng là một trong những điển hình thành công trong lĩnh vực đầu tư này. Song với Bảy Trọng, để có được danh hiệu “triệu phú ba ba” như hôm nay, anh đã mất biết bao mồ hôi, nước mắt và cả máu. Đặc biệt, sau lần thất bại thứ 5, vợ con anh quyết định bỏ lên Sài Gòn. Không ai chấp nhận ông chồng mần ăn thất bại liên tục mà không sáng thêm chút nào như vậy. Tui năn nỉ thử lần cuối, đào hồ mới để nuôi. Và đó cũng chính là bài học đầu tiên của một “hai lúa” làm kinh tế: ba ba chết hàng loạt trong bao năm qua bởi nguồn nước nuôi bị ô nhiễm nặng từ hóa chất ở xưởng làm hàng xuất khẩu song mây bên cạnh.
Với ông Ba ở Cần Thơ thì thất bại bởi lối làm ăn của “anh mù đi phá rừng”. Do không có người thu mua ba ba, ông mang sang Quảng Đông, Trung Quốc để bán. Không biết cách đóng gói, ba ba mang đến nơi hoặc trầy xước rất thê thảm hoặc ngộp chết hàng loạt phải thuê người đi chôn. Sau ba vụ, vốn liếng bay sạch. Lần “thử thời vận” sau cùng lại mang về cho ông món lãi 300 triệu đồng. Học lóm cách đóng hàng của người Tàu, để khi vận chuyển đến nơi, ba ba khoẻ mạnh, không bị trầy xước. Đánh liên tục trên 20 chuyến, ông thu về non 4 tỉ bạc. Đến nay, ông Ba là một trong những nhà cung cấp ba ba lớn nhất nước.
Đến nay, cả Bảy Trọng và ông Ba đã trở thành những triệu phú nuôi ba ba của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nắm vững kỹ thuật và biết cách nuôi xen kẽ, gần 10 năm qua, họ chưa bao giờ lặp lại tình trạng ba ba chết hàng loạt không rõ lý do như trước.
Ước mơ bay xa với ba ba
Bỏ ra 10 triệu đồng mua con giống, chi phí chuồng trại khoảng 20 triệu, sau một năm, nếu “thuận buồm xuôi gió”, lãi thu về trên 100 triệu. Một chủ trại nuôi ba ba lớn nhất nhì tỉnh Bình Dương khẳng định. Trước đây, một con ba ba giống giá trung bình 10-12.000 đồng, nay chỉ còn 5-7.000 đồng. Sau 12-15 tháng nuôi, trọng lượng trên 1kg/con, giá bán ra khoảng 100.000 đồng/kg.
Trieu phu tu nghe nuoi ba ba
Theo ông Phan Huy Ích, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Động vật Hoang dã (Chi Cục Kiểm lâm TP.HCM), tuy là động vật hoang dã, nhưng so với cá sấu và đà điểu, ba ba thuộc diện dễ nuôi, vốn đầu tư thấp nhất nhưng thời gian thu lãi nhanh và thị trường cực kỳ ổn định. Tuy nhiên, nếu chỉ chú ý vào thị trường nội địa, nghề nuôi ba ba khó để mở rộng được.
“Xuất khẩu sang Trung Quốc, dù bị ép giá, nhưng vẫn cho thấy hướng phát triển của nó!”, một “đầu nậu” chuyên thu gom ba ba xuất sang Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch nhận định Theo một số người chuyên thu mua ba ba xuất khẩu, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc… là những thị trường đầy tiềm năng cho ba ba xuất ngoại, giá cả có giảm hơn so với những năm trước, nhưng đổi lại, số lượng bán ra rất lớn.
Được biết, 30% sản phẩm ba ba của doanh nghiệp Việt Hùng đã xuất đi các nước này. Mấy năm qua, Công ty Việt Hùng cũng đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho 1.000 hộ và trang trại nuôi ba ba tại đồng bằng sông Cửu Long. Trung bình mỗi năm, công ty xuất đi hàng trăm tấn thịt ba ba. Trong đó, có công ty mua số lượng lớn để bào chế dược phẩm.
Theo dự báo của chuyên gia kinh tế, vì những công dụng bổ dưỡng từ thịt ba ba đã được khoa học chứng minh, xu hướng bào chế dược phẩm bằng thịt ba ba đang được nhiều công ty sản xuất dược ở các nước chú ý. Với các nhà nuôi ba ba, khi trao đổi với chúng tôi, họ mong ước làm sao để ký được những hợp đồng lớn với các nước.
Mang băn khoăn của các nhà đầu tư nhỏ này bỏ lên bàn của một chuyên gia xúc tiến thương mại, ông H.B cho hay, để ba ba xuất ngoại với số lượng lớn, nhà đầu tư phải điều chỉnh chi phí nuôi để giảm giá thành sản phẩm. Và chú ý trọng lượng khi xuất chuồng. Các nước thích ba ba nặng trên 1kg, giá thành sẽ cao hơn, trong khi người dân mình theo thói quen tiêu dùng trong nước, xuất ao con nhẹ dưới 1kg, nên bán không được giá lắm.
Nước chảy về chỗ trũng
Cách đây 13 năm, ông Tư (Bình Dương) đột ngột chặt hết vườn cây ăn trái rộng 12.000 m2 để đào ao thả 2.400 con ba ba. Do chưa có kinh nghiệm, hết vụ, ba ba chết hết 2/3, trừ mọi chi phí, gia đình ông vẫn lãi 55 triệu đồng. Sau thời gian bỏ công mày mò đèn sách, ông kết luận, nước phải chảy về chỗ trũng. Nếu không chịu khó tìm hiểu chuyên sâu, đọc sách, tham khảo chuyên môn của kỹ sư thủy sản… thì đầu tư hoài cũng như nước chảy tràn trên đồng.
Thức ăn để nuôi ba ba thông thường là tôm, cá, giun đất, ốc… chiếm 3-5% khối lượng ba ba nuôi. Theo ông Tư, ba ba nhiễm bệnh thường do nguồn thức ăn không tươi, nguồn nước không sạch. Ao nuôi ba ba phải đào sâu đúng chuẩn 70-80 cm. Nếu thấy ba ba trèo lên hai bờ hồ, tức là nguồn nước đã bị ô nhiễm. Thay nguồn nước mới, khử trùng bằng vôi bột, không nên dùng nhiều hóa chất tẩy rửa hồ, ba ba sẽ bị ảnh hưởng chậm phát triển.
Trieu phu tu nghe nuoi ba ba
Ông Tư từ chối tiết lộ mức lãi ròng mỗi năm, nhưng ước tính với lượng ba ba hiện có trong ao, mỗi năm ông thu về xấp xỉ 200 triệu đồng.
Không thể phủ nhận đây là một nghề ăn nên làm ra, song tỉ lệ rủi ro cũng không ít vì ba ba rất dễ nhiễm bệnh. Các nhà đầu tư tay ngang thường phải trả giá cho những vụ đầu, nhưng cho đến nay, chưa thấy ai bỏ cuộc vì những lỗ lã ban đầu cả. Trong nạn dịch cúm gia cầm, nuôi ba ba đang là mô hình đầu tư mang lại nguồn lợi nhuận an toàn nhất.
Tiềm năng xuất khẩu ba ba
Sang các thị trường như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… ước tính trên 1.500 tấn/năm.

Nuôi tắc kè thâm canh

Tắc kè là nguồn dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, nhưng hiện nay nguồn tắc kè trong thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, nên việc phát triển nuôi tắc kè tại hộ gia đình mang lại nhiều lợi ích và rất cần thiết.

Hiện nay, tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh đang triển khai mô hình nuôi nuôi tắc kè tại gia đình, bước đầu cho kết quả tốt và được người dân hưởng ứng.
Tắc kè là nguồn dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, nhưng hiện nay nguồn tắc kè trong thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, nên việc phát triển nuôi tắc kè tại hộ gia đình mang lại nhiều lợi ích và rất cần thiết.
Tắc kè trông giống như con thạch sùng nhưng to và dài hơn. Chúng thường sống trong những gốc cây, hốc đá, kẽ hở tường nhà. Tắc kè đực kêu thành tiếng, còn tắc kè cái không biết kêu.
Tắc kè cái trưởng thành ở 12 tháng tuổi và bắt đầu đẻ trứng. Nếu cho ăn uống đầy đủ, một tắc kè cái có thể đẻ 7-8 lứa/năm, mỗi lứa đẻ hai trứng. Tắc kè không ấp trứng, thời gian trứng nở từ 85-100 ngày, tùy nhiệt độ môi trường. Khi nở tắc kè con chui ra khỏi trứng và hoạt động ngay.
Tắc kè thường kiếm ăn vào buổi tối và trong môi trường yên tĩnh. Mồi của tắc kè là sâu bọ, cào cào, châu chấu, bướm, cánh cam, chuồn chuồn, nhện, dế mèn, mối, gián, ong... Chúng không ăn con mồi chết và ruồi nhặng. Tắc kè có thể nhịn ăn, uống dài ngày, mùa rét có thể nhịn ăn bốn tháng.
Tính ra, nếu một gia đình nuôi bốn thùng tắc kè, mỗi năm có thể thu 150 con. Sau 7-8 tháng nuôi, giá bán khoảng 40.000 đồng/con, trừ chi phí đóng chuồng mua giống còn lãi 4,8 triệu đồng. Nuôi tắc kè không tốn thức ăn mà lại diệt được những loại côn trùng phá hoại mùa màng.


Nuôi tắc kè theo phương pháp dã sinh
Do việc khai thác quá mức nên số lượng tắc kè ngoài thiên nhiên giảm sút nhanh chóng, nên việc nuôi nó để chủ động sử dụng là điều cần thiết. Dưới đây là phương pháp nuôi tắc kè dã sinh, là đề tài nghiên cứu khoa học và thực nghiệm đã thành công.

I. Chế tạo bọng
Bọng làm hình trụ, bằng một khúc gỗ dài 130 cm, đ-ờng kính từ 22 cm trở lên, gỗ gì cũng được miễn là đảm bảo độ bền, không thấm nước, mục ải, mọt, nứt nẻ, cong vênh.
Cách làm: Cắt một mạch cưa ngang khúc gỗ, cách đáy trên 10 cm, sâu vào thân 2/5 đường kính. Dọc một đường cưa từ đáy dưới lên, tách 2 phần ra, mảnh nguyên có bề dầy 3/5 để làm thân bọng; Mảnh phụ có bề dày 2/5 để làm cửa đóng mở, mảnh phụ lại cắt rời một đoạn phía đáy dưới 20 cm cho dễ chế tạo, khi làm xong sẽ đóng ốp lại với mảnh nguyên làm thân bọng.
Mảnh phụ khoét cong hình lòng máng. Mảnh nguyên khoét rỗng theo độ tròn thân cây, có độ dài 100 cm và đường kính là 14 cm, làm 2 gờ để ngăn khoang rỗng làm 4, một gờ ngang thân bọng, một gờ dọc thân bọng, bề dầy của gờ 2 cm, bề cao 3 cm.
Làm 2 cửa cho tắc kè ra vào. Đáy giữa khoét một lỗ hình phễu, miệng phễu ở phía chính giữa mảnh có chiều dài 20 cm cắt ra từng mảnh phụ, còn đáy phễu xuyên thẳng vào ruột bọng, miệng phễu có đường kính 10 cm, đáy phễu có đường kính 5 cm.
Phía đáy trên của bọng là một cửa sổ có kích thước: 5 x 10 cm, có cánh cửa lùa để tuỳ ý mở to, nhỏ hay đóng lại. Hai cửa làm hai phía đối diện nhau, cửa hình phễu phía trước, cửa sổ phía sau, mùa hè mở cả 2 cửa cho thông gió, thoáng mát, mùa đông đóng cửa sổ cho ấm.
Dùng bản lề loại 10 cm gá lắp cánh cửa với thân bọng, đóng nắp che mưa, đóng đinh làm dây treo bọng và đinh buộc dây cánh cửa
II. Huấn luyện giống
1. Chọn giống
Phương pháp nuôi bán dã sinh có thể áp dụng với bất cứ con tắc kè nào, tuy nhiên vì mục đích để phát triển nhanh thì cần chọn giống tốt, loại I (không già quá), loại II có đuôi nguyên sinh hoặc tái sinh đã dài.
Kích thước: Con loại I có chiều dài thân đo từ mõm đến lỗ huyệt từ 14 cm trở lên (đo phía bụng). Con loại II có chiều dài từ 11,5 cm đến 13,5 cm.
2. Cách nhận biết con dực và con cái
Cầm con tắc kè ngửa bụng, giữ cho tư thế nằm yên và thẳng, xem các dấu hiệu sau:
a. ở con đực gốc đuôi phồng to, lỗ huyệt lồi có gờ cao, còn con cái gốc đuôi thon, lỗ huyệt lép hơn.
b. Dưới lỗ huyệt có hai chấm gọi là chấm dưới huyệt. ở con đực chấm dưới huyệt to như hạt gạo, lồi và rất đen, còn con cái mờ và lép.
c. Dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái bóp vào chỗ phồng to của gốc đuôi, nếu là con đực thì có gai giao cấu lòi ra mầu đỏ thẫm, con cái không có.
3. Chuồng huấn luyện
Chuồng là một khung nhà đặt dưới bóng mát của tán cây, chuồng bọc lưới thép hay lưới nilông có cỡ mắt 3 x 4 mm, hoặc là một gian nhà xây có trần, nhiều cửa sổ được thưng bằng loại lưới kể trên, chuồng đủ độ sáng và thoáng mát, trong chuồng treo các bọng nhân tạo đặt cách nhau từ 30 cm trở lên, đáy bọng cách mặt đất tối thiểu là 1 m. Với một chuồng có kích thước: 3 x 6 x 3 m có thể treo 50 bọng và huấn luyện 500 con một lúc.
4. Cách huấn luyện
Con giống được thả vào chuồng, thức ăn nuôi nó là các loại côn trùng như: châu chấu, gián, dế mèn, cánh cứng, chuồn chuồn, bướm, sâu non v.v ... trong chuồng có máng gỗ hoặc máng tre đựng nước cho tắc kè uống, cho ăn vào quãng 17 giờ hàng ngày, mỗi con khoảng 6 gam thức ăn (tương đương 4 con châu chấu).
Ban ngày thấy những con không chịu chui vào bọng thì dùng que xua đuổi hoặc bắt thả vào bọng, có thể dùng các thứ gõ đập phát ra tiếng động mạnh hoặc té nước làm cho chúng sợ phải chui vào. Khi nào thấy tắc kè ban ngày chui vào bọng trú, đêm ra ngoài rình mồi hoặc ban ngày bám ở ngoài bọng khi thấy người liền chạy thụt vào bọng thì lúc đó có dấu hiệu đã thuần thục. Có một số con không thích ứng được biểu hiện là biếng ăn, không vào bọng, gầy và kém hoạt động thì cần loại ra.
Huấn luyện như cách trên là áp dụng cho số lượng con giống có nhiều, còn nếu ít thì chỉ cần cho con giống vào bọng, lấy mạng lưới che cửa sổ và cửa hình phễu. Khi gắn kết nhớ để một lỗ để hàng ngày có thể đút mồi vào được.
Bọng dựng hơi nghiêng, hàng ngày thả mồi cho ăn và dội nước vào cửa hình phễu cho tắc kè uống. Thời gian nuôi như vậy tối thiểu là 2 tháng, sau đó đem treo ra rừng như trường hợp chung.
Việc huấn luyện giống chỉ áp dụng đối với những con tắc kè mới bắt ở ngoài rừng về nuôi, còn đối với những con đã nuôi theo phương pháp bán dã sinh được chọn ra để làm giống thì không cần huấn luyện nữa, nh-ng vẫn phải áp dụng theo nguyên tắc về thời gian "chuyển giống ra rừng".
III. Chuyển giống ra rừng
Chọn những con đã thích ứng với bọng nhân tạo ghép 1 con đực với 2 con cái hoặc 1 con đực và 1 con cái vào bọng, dùng lưới thép hoặc lưới nilông cỡ mắt 3 x 3 mm bịt cửa hình phễu và đóng cửa sổ lại, đem bọng ra rừng treo. Thời gian tốt nhất là khoảng tháng 12 hoặc tháng 1 dương lịch, sau khi treo lên cây được 10 đến 15 ngày thì gỡ mạng che cửa hình phễu và hé mở cửa sổ.
Rừng chọn để nuôi tắc kè là rừng cây trên núi đất, ít có hang bọng tự nhiên, độ tán che từ 50% trở lên; Chọn những cây có đ-ờng kính trên 20 cm và có cành lá xum xuê thân cong queo nhiều cành nhánh, có dây leo um tùm càng tốt. Cự ly giữa các cây treo bọng từ 5m trở lên, mỗi ha treo khoảng 20 bọng, treo cao chừng 4 m cách mặt đất và cần tránh hướng có ánh nắng chiếu vào bọng.
Chăm sóc và bảo vệ: Sau khi treo bọng ra rừng và đã mở cửa cho tắc kè tự do ra vào, không cần quan tâm đến việc ăn uống của nó, nh-ng theo định kỳ mỗi tháng một lần mở cửa bọng làm vệ sinh, xua đuổi kiến và chuột hay vào chiếm chỗ. Kẻ thù của tắc kè là: cầy, mèo (mèo rừng và mèo nhà), rắn, bìm bịp và đặc biệt là cú mèo - kẻ thù nguy hiểm nhất.
Nuôi tắc kè không khó, ít tốn công, ít vốn, lại là một phần thu lợi, vừa là một thú vui trong gia đình.
KS. Vũ Thanh Tịnh

nghề nuôi cá rô đồng một hướng đi mới của nông thôn ngày nay

Hiện nay, mùa lũ đã về vùng Đồng Tháp Mười. Đó cũng là lúc bà con ở đây bước vào vụ cá trong năm. Ngoài đánh bắt tự nhiên, từ nhiều năm nay, bà con ở đây đã phát triển nghề nuôi cá ao, cá ruộng với diện tích mặt nước lên đến hàng trăm ngàn hecta.

Mùa lũ về là lúc nông nhàn, lại có nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào nên rất thuận lợi cho việc nuôi cá. Đối tượng được ưa thích của bà con hiện nay là con cá rô đồng, một loài cá bản địa, có đặc tính sinh sản mạnh, dễ nuôi và có chất lượng thịt rất ngon. Những năm trước, người chăn nuôi thường gặp thất bại khi không chủ động về vấn đề con giống. Thường thì con giống được đánh bắt ngoài tự nhiên nên kích cỡ không đều, lại bị trầy xước… nên dễ gây bệnh và chậm lớn, năng suất rất thấp.

Vài năm nay, với sự giúp sức về kỹ thuật của ngành thuỷ sản, nhiều bà con đã tự cho cá rô đồng đẻ được, từ đó chủ động trong khâu tuyển lựa giống, một trong những khâu quan trọng nhất quyết định đến năng suất cá nuôi.
1
Cá rô đồng là loài cá bản địa, có chất lượng thịt rất ngon.

Cá rô đồng, một giống cá năng suất cao

Năm 2006, được sự giúp đỡ của Trung tâm Thuỷ sản Long An, anh Nguyễn Văn Dũng ở xã Vĩnh Đại, huyện Vĩnh Hưng, đã được chuyển giao toàn bộ “qui trình” nhân giống và nuôi cá rô đồng trong ao. Anh đã thử nghiệm trên diện tích 1.800 mét vuông ao. Chỉ hơn 4 tháng nuôi, anh thu hoạch được 12 tấn cá thịt, trọng lượng trung bình 4 - 5 con/kg, với giá bán 25.200 đồng/kg, sau khi trừ chi phí anh Dũng lãi 170 triệu đồng.

Đánh giá về mô hình nuôi cá rô của anh Dũng, kỹ sư Võ Thành Hổ, trưởng trạm thuỷ sản Đồng Tháp Mười cho biết: “Đây có thể xem là năng suất cao nhất trong vùng. Từ mô hình của anh Dũng cho thấy, nếu chủ động được giống, nguồn vốn cho thức ăn, cộng với một ít kinh nghiệm thì rất nhiều hộ dân ở Đồng Tháp Mười có cơ hội thoát nghèo”.

Anh Dũng cho biết: “Nuôi cá rô đồng dễ lắm. Giống thì ương được rồi, cá rô thì phù hợp với vùng này lắm, giờ chỉ còn vốn. Mà cá này ngộ lắm, đến lúc cuối khi cá phát triển mà không có tiền cho ăn thì lỗ chắc, vì cá sẽ bị “chai” rồi không lớn luôn. Bởi vậy mà nếu được giúp đỡ, người dân đủ vốn cho thức ăn trong giai đoạn quyết định này là coi như ăn chắc”. Từ thành công ở vụ cá đầu tiên, anh Dũng đang mở rộng diện tích ra 2 hecta, hiện cá đã được hơn 1 tháng tuổi. Không những thế, từ mô hình của anh Nguyễn Văn Dũng, chỉ riêng xã Vĩnh Đại đã có trên 70 hộ dân cũng đang phát triển nghề nuôi cá rô đồng.

Phòng bệnh cho cá rô

Mặc dù là loài cá giỏi sống trong môi trường khắc nghiệt, song con cá rô khi nuôi với mật độ cao trong ao thì cũng hay phát sinh một số bệnh như: Xuất huyết, bệnh đường ruột, bệnh tuột nhớt, và một vài bệnh khác… Các bệnh này chủ yếu do môi trường nước xấu mang lại.

Chính vì vậy, trong quá trình nuôi, cần chú ý giữ cho nước trong ao thật tốt để phòng bệnh cho cá, nhất là ở giai đoạn giữa vụ trở đi, vì lúc này số lượng chất thải từ cá và các lớp tảo chết tích tụ dưới đáy ao rất nhiều. Biểu hiện dễ thấy nhất là khi độ PH tăng trên 7.0 (PH tốt nhất cho cá rô đồng là từ 6.5 - 7.0). Vì vậy trong suốt quá trình nuôi, cần chú ý sử dụng các chất xử lý nền đáy như ziolite hoặc các loại men vi sinh…

Canh giá

Theo kinh nghiệm của bà con vùng này, không chỉ cá rô mà các loại cá khác cũng vậy, cần sắp xếp mùa vụ làm sao để tránh xuất ao vào các tháng 8, 9, 10 âm lịch, vì đây là lúc “đụng” cá tự nhiên, nên cá bán không được giá.

Tốt nhất là nuôi cá trong chính thời gian này, vừa có nguồn nước tốt, vừa có nguồn thức ăn tự nhiên để bước sang tháng 11 âm lịch khi đã hết cá tự nhiên, cũng là lúc cá trong ao vừa đúng lứa, xuất ao lúc này là tốt nhất, cá mập mạp mà thị trường lại hút.

Dứt khoát phải tự nhân giống


1
Tự nhân cá rô giống.
Tại huyện Mộc Hoá, với phong trào nuôi cá trong ao đã có từ trước, mấy năm gần đây, nhiều bà con chuyển sang nuôi cá rô với qui mô hàng trăm hecta và tập trung nhiều nhất ở xã Bình Hoà Trung.

Anh Nguyễn Văn Quốc là người có kinh nghiệm trên năm năm trong nghề cho cá đẻ và nuôi cá rô đồng. Năm 2006, với diện tích 3.500 mét vuông ao, sau gần năm tháng nuôi, anh thu hoạch được 14 tấn cá thịt. Hiện tại cá trong ao của anh Quốc đã được gần 3 tháng tuổi, với trọng lượng trung bình đạt gần 50 gam/con.

Đối với anh, yếu tố quyết định cho thành công của một vụ cá vẫn là vấn đề con giống.

Anh cho biết: “Cho cá đẻ được là tụi tui đã thắng lợi đến bốn, năm mươi phần trăm rồi. Theo tui thì dứt khoát phải sử dụng con giống tự tạo thì mới được, vì giống mua trôi nổi rất dễ lầm với giống “dạt”, hay giống người ta lưới ngoài đồng về thì nuôi không đạt. Mấy năm trước đây nuôi cá thất bại cũng do lấy giống từ nguồn này”. Theo kinh nghiệm, sau mỗi vụ thu hoạch cá, bà con tuyển lại một số cá cái đẹp, đều cỡ, khoẻ mạnh nuôi vỗ vài tháng nữa rồi cho đẻ. Với việc cho cá rô đẻ, có thể nói, hiện bà con đã chủ động được vấn đề kỹ thuật nuôi để có một vụ cá tốt. Việc còn lại hiện nay bà con vùng Đồng Tháp Mười đang gặp phải là vốn.

Cần một sự trợ sức
1
Ao cá của anh Nguyễn Văn Quốc.
Theo anh Nguyễn Văn Quốc, cứ 1.000 mét vuông ao nuôi, cần có khoảng 100 triệu đồng làm vốn. Nhưng hầu hết bà con ở đây chỉ lo được khoảng 30% ở giai đoạn đầu, còn mấy tháng sau, khi cá đang sức lớn, cần lượng thức ăn lớn thì bà con đã đuối sức. Để chạy ăn cho cá lúc này, thường thì phải đi vay bên ngoài với lãi suất cao làm bà con mất lời. Một số khác không “chạy” được vốn thì cho cá ăn ít lại, nên cá không phát triển rồi cũng bị lỗ.

Theo kỹ sư Võ Thành Hổ, trưởng trạm thuỷ sản Đồng Tháp Mười thì: “Con cá rô khi đến tuổi bán thì không thể trì hoãn được. Nếu kéo dài thì cá sẽ ôm trứng rồi không phát triển nữa, hoặc cá giảm ăn và ốm đi… thường là “lái” hay chê rồi ép giá”

Với việc thành công trong nghề nuôi cá rô, xem như bà con Đồng Tháp Mười đã tạo được cái “nền” rất tốt cho phong trào xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Vấn đề còn lại để phong trào này mang lại hiệu quả cao nhất và ngày càng nhân rộng chỉ là Nhà nước có chính sách tiếp sức cho người dân ở những thời điểm quyết định mà thôi.