Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012

Nuôi tắc kè thâm canh

Tắc kè là nguồn dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, nhưng hiện nay nguồn tắc kè trong thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, nên việc phát triển nuôi tắc kè tại hộ gia đình mang lại nhiều lợi ích và rất cần thiết.

Hiện nay, tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh đang triển khai mô hình nuôi nuôi tắc kè tại gia đình, bước đầu cho kết quả tốt và được người dân hưởng ứng.
Tắc kè là nguồn dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, nhưng hiện nay nguồn tắc kè trong thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, nên việc phát triển nuôi tắc kè tại hộ gia đình mang lại nhiều lợi ích và rất cần thiết.
Tắc kè trông giống như con thạch sùng nhưng to và dài hơn. Chúng thường sống trong những gốc cây, hốc đá, kẽ hở tường nhà. Tắc kè đực kêu thành tiếng, còn tắc kè cái không biết kêu.
Tắc kè cái trưởng thành ở 12 tháng tuổi và bắt đầu đẻ trứng. Nếu cho ăn uống đầy đủ, một tắc kè cái có thể đẻ 7-8 lứa/năm, mỗi lứa đẻ hai trứng. Tắc kè không ấp trứng, thời gian trứng nở từ 85-100 ngày, tùy nhiệt độ môi trường. Khi nở tắc kè con chui ra khỏi trứng và hoạt động ngay.
Tắc kè thường kiếm ăn vào buổi tối và trong môi trường yên tĩnh. Mồi của tắc kè là sâu bọ, cào cào, châu chấu, bướm, cánh cam, chuồn chuồn, nhện, dế mèn, mối, gián, ong... Chúng không ăn con mồi chết và ruồi nhặng. Tắc kè có thể nhịn ăn, uống dài ngày, mùa rét có thể nhịn ăn bốn tháng.
Tính ra, nếu một gia đình nuôi bốn thùng tắc kè, mỗi năm có thể thu 150 con. Sau 7-8 tháng nuôi, giá bán khoảng 40.000 đồng/con, trừ chi phí đóng chuồng mua giống còn lãi 4,8 triệu đồng. Nuôi tắc kè không tốn thức ăn mà lại diệt được những loại côn trùng phá hoại mùa màng.


Nuôi tắc kè theo phương pháp dã sinh
Do việc khai thác quá mức nên số lượng tắc kè ngoài thiên nhiên giảm sút nhanh chóng, nên việc nuôi nó để chủ động sử dụng là điều cần thiết. Dưới đây là phương pháp nuôi tắc kè dã sinh, là đề tài nghiên cứu khoa học và thực nghiệm đã thành công.

I. Chế tạo bọng
Bọng làm hình trụ, bằng một khúc gỗ dài 130 cm, đ-ờng kính từ 22 cm trở lên, gỗ gì cũng được miễn là đảm bảo độ bền, không thấm nước, mục ải, mọt, nứt nẻ, cong vênh.
Cách làm: Cắt một mạch cưa ngang khúc gỗ, cách đáy trên 10 cm, sâu vào thân 2/5 đường kính. Dọc một đường cưa từ đáy dưới lên, tách 2 phần ra, mảnh nguyên có bề dầy 3/5 để làm thân bọng; Mảnh phụ có bề dày 2/5 để làm cửa đóng mở, mảnh phụ lại cắt rời một đoạn phía đáy dưới 20 cm cho dễ chế tạo, khi làm xong sẽ đóng ốp lại với mảnh nguyên làm thân bọng.
Mảnh phụ khoét cong hình lòng máng. Mảnh nguyên khoét rỗng theo độ tròn thân cây, có độ dài 100 cm và đường kính là 14 cm, làm 2 gờ để ngăn khoang rỗng làm 4, một gờ ngang thân bọng, một gờ dọc thân bọng, bề dầy của gờ 2 cm, bề cao 3 cm.
Làm 2 cửa cho tắc kè ra vào. Đáy giữa khoét một lỗ hình phễu, miệng phễu ở phía chính giữa mảnh có chiều dài 20 cm cắt ra từng mảnh phụ, còn đáy phễu xuyên thẳng vào ruột bọng, miệng phễu có đường kính 10 cm, đáy phễu có đường kính 5 cm.
Phía đáy trên của bọng là một cửa sổ có kích thước: 5 x 10 cm, có cánh cửa lùa để tuỳ ý mở to, nhỏ hay đóng lại. Hai cửa làm hai phía đối diện nhau, cửa hình phễu phía trước, cửa sổ phía sau, mùa hè mở cả 2 cửa cho thông gió, thoáng mát, mùa đông đóng cửa sổ cho ấm.
Dùng bản lề loại 10 cm gá lắp cánh cửa với thân bọng, đóng nắp che mưa, đóng đinh làm dây treo bọng và đinh buộc dây cánh cửa
II. Huấn luyện giống
1. Chọn giống
Phương pháp nuôi bán dã sinh có thể áp dụng với bất cứ con tắc kè nào, tuy nhiên vì mục đích để phát triển nhanh thì cần chọn giống tốt, loại I (không già quá), loại II có đuôi nguyên sinh hoặc tái sinh đã dài.
Kích thước: Con loại I có chiều dài thân đo từ mõm đến lỗ huyệt từ 14 cm trở lên (đo phía bụng). Con loại II có chiều dài từ 11,5 cm đến 13,5 cm.
2. Cách nhận biết con dực và con cái
Cầm con tắc kè ngửa bụng, giữ cho tư thế nằm yên và thẳng, xem các dấu hiệu sau:
a. ở con đực gốc đuôi phồng to, lỗ huyệt lồi có gờ cao, còn con cái gốc đuôi thon, lỗ huyệt lép hơn.
b. Dưới lỗ huyệt có hai chấm gọi là chấm dưới huyệt. ở con đực chấm dưới huyệt to như hạt gạo, lồi và rất đen, còn con cái mờ và lép.
c. Dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái bóp vào chỗ phồng to của gốc đuôi, nếu là con đực thì có gai giao cấu lòi ra mầu đỏ thẫm, con cái không có.
3. Chuồng huấn luyện
Chuồng là một khung nhà đặt dưới bóng mát của tán cây, chuồng bọc lưới thép hay lưới nilông có cỡ mắt 3 x 4 mm, hoặc là một gian nhà xây có trần, nhiều cửa sổ được thưng bằng loại lưới kể trên, chuồng đủ độ sáng và thoáng mát, trong chuồng treo các bọng nhân tạo đặt cách nhau từ 30 cm trở lên, đáy bọng cách mặt đất tối thiểu là 1 m. Với một chuồng có kích thước: 3 x 6 x 3 m có thể treo 50 bọng và huấn luyện 500 con một lúc.
4. Cách huấn luyện
Con giống được thả vào chuồng, thức ăn nuôi nó là các loại côn trùng như: châu chấu, gián, dế mèn, cánh cứng, chuồn chuồn, bướm, sâu non v.v ... trong chuồng có máng gỗ hoặc máng tre đựng nước cho tắc kè uống, cho ăn vào quãng 17 giờ hàng ngày, mỗi con khoảng 6 gam thức ăn (tương đương 4 con châu chấu).
Ban ngày thấy những con không chịu chui vào bọng thì dùng que xua đuổi hoặc bắt thả vào bọng, có thể dùng các thứ gõ đập phát ra tiếng động mạnh hoặc té nước làm cho chúng sợ phải chui vào. Khi nào thấy tắc kè ban ngày chui vào bọng trú, đêm ra ngoài rình mồi hoặc ban ngày bám ở ngoài bọng khi thấy người liền chạy thụt vào bọng thì lúc đó có dấu hiệu đã thuần thục. Có một số con không thích ứng được biểu hiện là biếng ăn, không vào bọng, gầy và kém hoạt động thì cần loại ra.
Huấn luyện như cách trên là áp dụng cho số lượng con giống có nhiều, còn nếu ít thì chỉ cần cho con giống vào bọng, lấy mạng lưới che cửa sổ và cửa hình phễu. Khi gắn kết nhớ để một lỗ để hàng ngày có thể đút mồi vào được.
Bọng dựng hơi nghiêng, hàng ngày thả mồi cho ăn và dội nước vào cửa hình phễu cho tắc kè uống. Thời gian nuôi như vậy tối thiểu là 2 tháng, sau đó đem treo ra rừng như trường hợp chung.
Việc huấn luyện giống chỉ áp dụng đối với những con tắc kè mới bắt ở ngoài rừng về nuôi, còn đối với những con đã nuôi theo phương pháp bán dã sinh được chọn ra để làm giống thì không cần huấn luyện nữa, nh-ng vẫn phải áp dụng theo nguyên tắc về thời gian "chuyển giống ra rừng".
III. Chuyển giống ra rừng
Chọn những con đã thích ứng với bọng nhân tạo ghép 1 con đực với 2 con cái hoặc 1 con đực và 1 con cái vào bọng, dùng lưới thép hoặc lưới nilông cỡ mắt 3 x 3 mm bịt cửa hình phễu và đóng cửa sổ lại, đem bọng ra rừng treo. Thời gian tốt nhất là khoảng tháng 12 hoặc tháng 1 dương lịch, sau khi treo lên cây được 10 đến 15 ngày thì gỡ mạng che cửa hình phễu và hé mở cửa sổ.
Rừng chọn để nuôi tắc kè là rừng cây trên núi đất, ít có hang bọng tự nhiên, độ tán che từ 50% trở lên; Chọn những cây có đ-ờng kính trên 20 cm và có cành lá xum xuê thân cong queo nhiều cành nhánh, có dây leo um tùm càng tốt. Cự ly giữa các cây treo bọng từ 5m trở lên, mỗi ha treo khoảng 20 bọng, treo cao chừng 4 m cách mặt đất và cần tránh hướng có ánh nắng chiếu vào bọng.
Chăm sóc và bảo vệ: Sau khi treo bọng ra rừng và đã mở cửa cho tắc kè tự do ra vào, không cần quan tâm đến việc ăn uống của nó, nh-ng theo định kỳ mỗi tháng một lần mở cửa bọng làm vệ sinh, xua đuổi kiến và chuột hay vào chiếm chỗ. Kẻ thù của tắc kè là: cầy, mèo (mèo rừng và mèo nhà), rắn, bìm bịp và đặc biệt là cú mèo - kẻ thù nguy hiểm nhất.
Nuôi tắc kè không khó, ít tốn công, ít vốn, lại là một phần thu lợi, vừa là một thú vui trong gia đình.
KS. Vũ Thanh Tịnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét